Chương
3. Giới Trọng Và Giới Khinh Của Bồ Tát Giới
I.
SAO GỌI LÀ GIỚI TRỌNG VÀ GIỚI KHINH?
Sự phân biệt của giới trọng và
giới khinh là ở sự bất đồng của “căn bản” và “chủng loại”, hoặc sự bất đồng của
“tánh tội” và “giá tội”. Căn bản của tất cả giới gọi là căn bản giới như: Sát
sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, là căn bản của tất cả giới. Từ trên mỗi một
thứ căn bản sinh ra các tiểu giới đồng loại, gọi là Chủng loại giới, tỷ như
đánh chúng sinh là chủng loại của giới sát, làm tổn tài vật của người là chủng
loại của giới trộm cướp, xúc chạm người khác phái là chủng loại của giới dâm,
nói lời vô vị là chủng loại của giới vọng ngữ. Tuy phạm loại tương tự sát sinh,
trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ mà chưa đạt đến trình độ tội đã thành của sát
sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ, bất luận thọ giới hay không thọ giới, hễ
tạo thành sự thật đều là một thứ tội ác; vị lai nhất định bị quả báo, vì bản
tánh của nó là tội hạnh, là chánh nhân của nghiệp báo, vì thế gọi là Tánh tội.
Lại, nếu không cố gắng hết sức cứu độ chúng sinh, người không thọ Bồ tát giới
không kể là phạm giới, không có tội. Người thọ Bồ tát giới rồi, do sự quy định
trong giới, không đem sức cứu hộ chúng sinh thì có tội, vì thế gọi là Giá tội.
Lại như người không thọ Bồ tát
giới không học kinh luật Đại thừa thì không có tội, còn người thọ Bồ tát giới
rồi không thể không học kinh luật Đại thừa, đây là ngăn cấm không được như thế,
vì thế gọi là Giá giới.
Công đức của thọ giới, trì giới
rất lớn. Thọ giới mà không trì giới, tội lỗi cũng rất lớn. Có thưởng có phạt là
lý tất nhiên. Thọ trì một giới có công đức một giới, phạm phá một giới cũng có
tội lỗi của phạm phá một giới. Công đức thọ trì giới trọng lớn, tội lỗi của
phạm phá giới trọng là rất lớn. Vì thế, trước và sau khi thọ giới, chúng ta
nhất định phải nhận thức rõ ràng về nội dung của giới trọng giới khinh.
Đến như xưng danh của giới
trọng, giới khinh, các loại bổn đều riêng có xưng hô bất đồng. Nói về giới trọng,
Kinh Anh Lạc gọi 10 điều giới trọng là “Thập bất khả hối”, Kinh Phạm Võng gọi
là “Ba la di”, Du Già Giới Bổn gọi là
“Tha thắng xứ”, Ưu bà tắc Giới Kinh gọi 6 điều giới trọng là “ Lục
trọng pháp”.
Nói về giới khinh, Kinh Phạm
Võng gọi là “khinh cấu”, Kinh Địa Trì gọi
là: “Đột kiết la”, Du già dịch là Ác tác”, cũng gọi là “Vi việt”,
Ưu bà tắc Giới Kinh gọi là “Thất ý tội”.
Đây là những danh xưng căn cứ
vào cộng dụng của giới tội và phần lượng của tánh tội mà lập ra, danh xưng tuy
khác nhau nhưng tội được chỉ định là một. Kinh Anh Lạc nói: “Thập trọng có phạm
không có hối”; phạm giới khinh: “Được cho hối quá đối thú hối diệt tội”. Phạm
10 giới trọng không có phương pháp sám hối trừ tội, vì thế gọi là bất khả hối.
Phạm giới trọng như người bị chặt đầu không thể dùng thứ thuốc nào của Phật
pháp cứu trị được, vì thế gọi là tội Đoạn đầu. Ba la di dịch từ âm chữ Phạn:
Pàràjika, nghĩa là Đoạn đầu. Phạm giới trọng tức là bị pháp đối địch của người
bên ngoài chiến thắng, vì thế gọi là Tha thắng xứ.
Phạm giới khinh gọi là tội
nghiệp cấu, so với giới trọng nhẹ hơn, vì thế xưng là khinh cấu. Đột kiết la
dịch âm từ chữ Phạn: Duskurta nghĩa lá ác tác hoặc ác thuyết. Phạm giới khinh
là chống trái và vượt ra phạm vi tâm hạnh của người tu trì, vì thế gọi là “vi
việt”. Phạm giới khinh là do vọng niệm gây ra, trái với ý nguyện của người thọ
giới tu trì, vì thế gọi là “Thất ý”.
II.
NỘI DUNG CỦA GIỚI TRỌNG
Từ trên bản chất và nguyên tắc,
căn bản giới của Đại thừa, Tiểu thừa tương đồng. Từ trên cấp độ và tác dụng,
căn bản của Đại thừa và Tiểu thừa có sai biệt. Bốn giới căn bản lớn của Tiểu
thừa Thanh văn là sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ. Mười giới trọng lớn
của Đại thừa Bồ tát bao hàm sát sinh, trộm cướp, dâm dục, vọng ngữ. Đây là chỗ
đồng và khác của Đại thừa, Tiểu thừa. Điểm xuất tương đồng, trên hiệu dụng bất
tương đồng.
Trong 6 loại giới bổn của Đại
thừa Bồ tát giới, đối với sự trình bày và sắp xếp điều mục giới trọng cũng đều
riêng có sai biệt. Kinh Anh Lạc và Kinh Phạm Võng có 10 điều giới trọng đồng
nhau, Du Già Giới Bổn có 4 điều, Kinh Địa
Trì có 4 điều, Thiện Giới Kinh có 8 điều, Ưu bà tắc Giới Kinh có 6 điều. Nhưng
bất luận 4 điều, 6 điều, 8 điều đều ở trong phạm vi 10 điều. Nay
đem giới mục giới trọng của 6 loại giới bổn liệt kê đối chiếu như sau: (trang
bên)
Nội dung của giới trọng Bồ tát
giới là Nhiếp luật nghi giới của tam tụ tịnh giới, tuy chỉ có 10 điều mà thật
đã bao quát tất cả luật nghi giới.
Từ đây trở xuống chúng tôi lấy
Phạm Võng Bồ tát Giới Bổn làm đối tượng
giới thiệu chủ yếu nghiên cứu đến các loại Bồ tát Giới bổn khác.
Mười điều giới trọng của Bồ tát
giới được phân ra là thuộc về ba loại thân, miệng, ý. Trong Tiểu thừa giới,
thân miệng phạm giới có tội, tâm ý phạm giới vô tội, tâm ý phạm giới cũng không
thành phạm giới. Thế nên đã chẳng phải lấy ý nghiệp làm giới khinh, cũng không
lấy ý nghiệp làm giới trọng. Nhưng trong Đại thừa giới chẳng những tâm ý vi
phạm là có tội, thậm chí còn liệt vào tội nặng.
Thật ra, hai nghiệp thân miệng
thành tội hạnh, chủ yếu là do dự mưu kế hoạch và sự thao túng của ý nghiệp; do
sự phát động của ý nghiệp mà thành hai nghiệp thân miệng có ác có thiện và cũng
có không ác không thiện. Trong giới hiện tại ngăn cấm là ý thuộc về nghiệp ác,
đó là ba độc tham, sân, si, rất nổi tiếng và rất đáng sợ. Mười giới trọng của
Bồ tát có thể khái quát làm ba nghiệp, ba nghiệp có thể quy nạp vào một ý
nghiệp bị tam độc thống trị.
Đây là từ trọng tâm của 10 giới
trọng phân biệt, nếu phân tích kỹ càng thì trong mỗi giới đều có thành phần của
ba nghiệp. Hiện tại muốn dễ hiểu nên phân tích đại khái như sau:
Nhìn trên biểu đồ này, sự sinh
ra 10 giới trọng của Bồ tát giới chỉ vì mỗi nguyên nhân, đó là đối phó với ý
nghiệp làm ác mà điều phục tam độc làm hại. Chúng sinh chúng ta sở dĩ bị trầm
luân trong biển sinh tử của lục đạo, mê mộng trong đêm dài triền miên cũng là ý
nghiệp bất thiện mà bị tam độc làm hại.
Phương pháp phạm giới của 10
điều giới trọng phân làm ba loại: có loại tự,mình đối với người khác mà phạm,
có loại chính mình đối với mình mà phạm, có loại người khác đối với mình mà
phạm.
Đối tượng phạm giới của 10 điều
giới trọng phân làm hai loại: một là hữu tánh, hai là loại phi tánh.
Căn cứ vào phương pháp và đối
tượng của sự phạm phá 10 điều giới trọng có thể liệt vào biểu đồ như sau:
Biểu đồ này cần phải nói thêm
cho rõ:
Phạm giới đắc tội đều là do làm
cho chúng sinh khác bị tổn hại hoặc phiền não mà ra, vì thế phương pháp phạm
giới chủ yếu của 10 điều giới trọng là tự mình đối người phạm. Nhưng cũng có 5
điều là có thể mình đối với chính mình phạm, tỷ như chính mình giết mình là phạm
giới sát; có người thân thể mềm mại có thể dùng miệng nút sinh thực khí của
chính họ để được khoái lạc thì phạm giới dâm; ba điều là xan tham, giận hờn và
phỉ báng Tam bảo, so theo đây có thể biết. Người khác đối mình phạm chỉ có một
điều giới dâm, lúc nhập, đã xuất, xuất ra, chỉ cần sinh khởi tâm cảm thọ một
niệm khoái lạc dâm dục thì kể là phạm giới.
Đối tượng của sự phạm giới vốn
lấy chúng sinh hữu tình làm đối tượng chủ yếu của sự đắc tội. Nhưng có ba điều
có thể từ trên sự thật phi tình đắc tội, tỷ như gian dâm với thây chết chưa
hoại; đã là thây chết thuộc về vật thể phi tình không có tri giác, nhưng vẫn có
thể ở trên thây chết chưa hoại để đạt đến mục đích thọ lạc của việc hành dâm.
Vì thế trên vật phi tình đắc tội trọng của phạm giới dâm. Hai điều giới: cố
giận hờn và phỉ báng Tam bảo, có thể theo đây suy ra mà biết.
Nhưng đối với sự giải thích điều
văn giới trọng, vì không có Kinh Phạm Võng của Đại Bổn làm căn cứ nên nhà chú
sớ từ xưa đến nay phần nhiều không có được quan niệm thống nhất. Từ trên đại
thể nói, các bản chú sớ Kinh Phạm Võng của các nhà chia làm hai phái Tân và
Cựu, Cựu sớ lấy Bồ tát Giới Sớ của Đại sư Trí Giả tông Thiên Thai là chủ yếu,
các chú sớ của Ngài Minh Khoáng đời Đường, Liên Trì, Ngẫu Ích, Hoằng Tán cuối
đời Minh đều thuộc một hệ Cựu sớ.
Tân sớ thì lấy Bồ tát Giới Bổn
Sớ của Đại sư Hiền Thủ Pháp Tạng làm đầu; Nghĩa Tịch Sớ, Thái Hiền Cổ Tích Ký đời Đường đều là hệ Tân sớ. Điểm bất đồng
lớn nhất của Tân sớ và Cựu sớ là sự phân biệt đối với điều văn của
10 điều giới trọng. Cựu sớ đại thể lập luận theo Thanh văn giới, cho rằng chỗ
chỉ trong điều văn của điều giới trọng có trọng cũng có khinh, nói khinh để so
với trọng, tỷ như giết người phạm tội trọng, giết chúng sinh dị loại phạm tội
khinh; trộm 5 tiền trở lên phạm tội trọng, trộm 5 tiền trở xuống phạm tội
khinh, đại vọng ngữ phạm tội trọng, tiểu vọng ngữ phạm tội khinh. Nhưng theo
Tân sớ mà nói, cho rằng giới trọng của Bồ tát giới trọng hơn Thanh văn, vì thế
“cho đến loài vật có sinh mạng cũng không được cố giết”, “cho đến vật của quỷ
thần, vật có chủ, vật của kẻ trộm cướp, tất cả tài vật: một cây kim, ngọn cỏ
không được cố trộm”, “Cho đến thấy nói không thấy, không thấy nói thấy, thân
tâm vọng ngữ”, nếu phạm đều đắc tội Ba la di.
Duy nói theo thông thường, phần
nhiều lấy Cựu sớ làm chuẩn, nhân vì Du già Giới Bổn khai có 7 chi nhánh tội,
Kinh Văn Thù Vấn thì cho rằng hễ khởi tâm niệm sát sinh, trộm cướp, dâm dục
vọng ngữ đều phạm giới Bồ tát Ba la di tội. Hai đàng nói khác nhau, đó là theo
hàng Bồ tát Thánh vị mà nói, chứ hàng Bồ tát mới phát tâm quyết khó làm đến
trình độ này. Nếu không như vậy thì cơ hội Bồ tát phạm tội trọng thật rất
nhiều. Nhưng cũng nên lấy quan điểm của Tân dịch là sợ hãi để cảnh giác, vì từ
trước đến nay chúng ta không có một người hiểu rõ một cách đúng đắn về điều văn
của giới Phạm Võng chỉ dạy với ý nghĩa gì.
Đến số điều giới trọng của các
loại Bồ tát Giới Bổn tại sao có nhiều có ít? Điều này ở trong Bồ tát Giới Bổn Sớ của Đại sư Pháp Tạng có nói như vầy: trong Kinh
Phạm Võng này vì lý do là thất chúng đệ tử cùng chung thọ trì, vì
thế nên nói cụ thể 10 điều giới trọng. Kinh
Thiện Sanh đặc biệt nói cho hai chúng đệ tử tại gia, vì thế đem 6
điều trước của 10 điều giới trọng làm giới trọng. Lại vì người tại gia đối với
tội lỗi, tội hạnh của bán rượu cho người và nói lỗi tứ chúng đặc biệt dễ phạm
đến, vì thế ngoài 4 giới trọng căn bản ra, còn thêm hai điều giới này, thành 6
điều giới trọng. Bốn điều giới sau trong 10 giới trọng, sự phạm tội của người
tại gia nhẹ hơn, vì thế không chế làm giới trọng của người tại gia. Nhưng 4
điều sau đối với người xuất gia tội lỗi thiên trọng. Hai điều thứ 5 và thứ 6
đối với người xuất gia không quá nghiêm trọng, vì thế Địa Trì và Du già Giới
Bổn chỉ liệt bốn điều sau làm giới trọng.
Lại vì trong 10 điều giới trọng,
4 điều trước đối Đại thừa, Tiểu thừa đều là giới trọng. Hai điều thứ 5 và thứ 6
đối với người tại xuất gia đều là giới trọng. Bốn điều sau chót chỉ có Đại thừa
Bồ tát mới thành giới trọng.
Đó là sự giải thích của Đại sư
Pháp Tạng nhưng tôi còn thấy có một ý kiến bổ sung. Bởi vì Anh Lạc và Phạm Võng thuộc Đốn lập giới, vì thế trừ giới mục
đặc biệt của Bồ tát ra, còn phải liệt vào giới mục căn bản hoặc cơ
sở chung cho cả thất chúng, do đó thành 10 giới. Du Già, Địa Trì là tiệm thứ giới, là đã thọ qua cộng thông
giới của cơ sở thất chúng, vì thế chỉ nêu bốn giới sau của Bồ tát đặc biệt
thiên trọng là đủ. Đến Ưu bà tắc Giới
Kinh tuy cũng thuộc về tiệm thứ giới nhưng trong đó có nói rõ: “Ưu
bà tắc là căn bản của Sa di thập giới. Đại Tỳ kheo giới, Bồ tát giới cho đến A
nậu đa la tam miệu tam bồ đề”. Nhân vì đây là căn bản của tất cả giới, vì thế
phải liệt kê bốn giới căn bản trước, lại vì là Đại thừa giới nên phải thêm hai
điều thứ 5 và thứ 6 làm giới trọng. Sáu giới trọng của Ưu bà tắc Giới Kinh thêm vào 4 giới trọng của Du già
Giới Bổn vừa vặn thành 10 điều giới bổn của Anh Lạc và Phạm Võng. Đến như giới
trọng của Thiện Giới Kinh là 4 điều trước thêm 4 điều sau thành 8
điều cũng công nhận rằng đúng như lời Đại sư Pháp Tạng nói: “Hai điều thứ 5 và
thứ 6 đối với người xuất gia không nghiêm trọng lắm”. Vì thế trong ba loại giới
bổn: Du Già, Địa Trì và Thiện Giới Kinh
tại sao lại đem 4 điều trước liệt vào thành 8 điều thì không được
biết, cũng có lẽ đây là do ý của người dịch chăng?
III.
NỘI DUNG CỦA GIỚI KHINH
Nội dung của giới khinh của Bồ
tát cũng là Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình của Tam tụ tịnh giới.
Đây cũng là từ trên phần đại thể, nếu luận kỹ, bất luận giới trọng giới khinh,
mỗi giới đều nhiếp vào thành phần của Tam tụ tịnh giới.
Căn cứ vào Bồ tát Giới Bổn Sớ
của Ngài Nghĩa Tịnh nói: Kinh Anh Lạc nói Nhiếp luật nghi giới là 10 Ba la di,
Nhiếp thiện pháp là 9 vạn 4 ngàn pháp môn, Nhiếp chúng sinh giới là từ, bi, hỷ,
xả. Lại nói: “Trong 48 giới khinh của Phạm Võng, 30 giới trước phần nhiều là
nhiếp thiện, 18 giới sau phần nhiều là lợi sinh”. Đây cũng là từ trên phần đại
thể mà nói. Vì về Bồ tát giới, điều văn của Phạm Võng Bồ tát Giới là đặc biệt
hơn hết, trong giới trọng có thành phần của giới khinh, trong giới khinh có
thành phần của giới trọng, cho đến trong điều văn của một điều của giới cũng
bao quát nhiều loại và ý tứ không nối tiếp quán thông. Vì thế, phân loại nhất
định như thế nào thật là điều rất khó.
Căn cứ vào sự nghiên cứu của Đại
sư Pháp Tạng thì Phạm Võng Giới Kinh
trong khinh có mang trọng và trong một gồm có nhiều, nay nêu ra như
sau:
A. Trong khinh mang trọng, có 6
điều:
1. Điều thứ 11, trong giới đi
thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận có hai điều khinh trọng:
Vì người làm sứ đưa tin, phạm tội khinh; nhân đây hai bên đánh giết nhau, phạm
tội trọng sát sinh.
2. Điều thứ 14, trong giới phóng
hỏa thiêu đốt làm tổn hại tài vật, gồm có hai điều khinh trọng: Thiêu đốt là
phạm giới khinh, tổn hại tài vật của người thì phạm giới trọng trộm cướp.
3. Điều thứ 17, trong giới cậy
thế lực quyên tởi gồm có hai điều khinh trọng: Cậy thế lực quan quyền, phạm
giới khinh; cưỡng lấy tài vật của người, phạm giới trọng trộm cướp.
4. Điều thứ 25, trong giới tri
chúng vụng về gồm có điều khinh trọng: Làm tri chúng vụng về, phạm giới khinh;
tổn thất tài vật của Tam bảo, phạm giới trọng trộm cướp.
5. Điều thứ 30, trong giới trái
với cấm giới, làm điều quấy, gồm có hai điều khinh trọng: Giả tuồng kính mến,
phạm giới khinh; tự mình huỷ báng Tam bảo, phạm giới trọng.
6. Điều thứ 32, trong giới chứa
điều phi pháp gồm có hai điều khinh trọng: Chứa cân non, giạ thiếu, phạm giới
khinh; lấy tài vật của người, phạm giới trọng trộm cướp.
B. Trong một có nhiều, gồm 10
điều:
1. Điều thứ 12, trong giới buôn
bán có 3 điều: 1. Bán người lành, 2. Bán tôi tớ, lục súc, 3. Bán quan tài, ván
cây để đựng thây người chết.
2. Điều thứ 20, trong giới không
cứu hộ sinh mạng có 2 điều: 1. Cứu sinh mạng khỏi bị giết, 2. Ngày người thân
chết, giảng pháp để cứu khổ cho người chết.
3. Điều thứ 23, trong giới khinh
người mới cầu học có 2 điều: 1. Oai nghi thọ giới, 2. Pháp sư ỷ thị, mình hiểu
kinh luật Đại thừa và kết bạn với quốc vương v.v… không đáp lời hỏi của tân học
Bồ tát.
4. Điều thứ 29, trong giới làm
nghề ác tổn hại chúng sinh có 6 điều: 1. Buôn bán nam sắc, nữ sắc, 2. Tự tay
làm đồ ăn, tự xay tự giã, 3. Xem tướng bàn mộng, 4. Bùa chú phép thuật, 5.
Phương pháp nuôi ó, 6. Hòa hợp thuốc độc.
5. Điều thứ 30, trong giới trái
với cấm giới làm quấy có 4 điều: 1. Phỉ báng Tam bảo, 2. Làm mai mối cưới
gả, 3. Sáu ngày trai mỗi tháng, ba tháng trường trai mỗi năm sát sinh, 4. Tâm
tưởng đến trộm cướp.
6. Điều thứ 32, trong giới chứa
đồ phi pháp, có 6 điều: 1. Chứa dao, tên v.v…, 2. Chứa cân non, giạ thiếu, 3. Ỷ
vào thế lực lấy tài vật của người, 4. Ác tâm trói buộc người, 5. Phá hoại thành
công của người, 6. Nuôi mèo, chồn, heo, chó.
7. Điều thứ 33, trong giới xem nghe làm ác có năm điều: 1.
Không được xem đấu chiến nhau, 2. Không được cố nghe âm nhạc, 3. Không được đi
xem hát, 4. Không được bói xủ, 5. Không được làm tay sai cho kẻ trộm cướp.
8. Điều thứ 37, trong giới cố
vào chỗ có nạn, có 3 điều: 1. Đầu đà, 2. Bồ tát, 3. An cư mùa Hạ, mùa Đông phải
đúng như pháp, không vào chỗ có nạn.
9. Điều thứ 39, trong giới nên
giảng hay không giảng có hai điều: 1. Giáo hóa người kiến lập chùa tháp, tăng
phòng, 2. Dạy khi gặp nạn nên giảng thuyết kinh luật Đại thừa.
10. Điều thứ 40, trong giới thọ
giới không đúng nghi thức có điều: 1. Oai nghi thọ giới, 2. Tăng không lạy tục.
Từ trong 16 điều của hai loại
lớn: Trong khinh mang trọng và trong một gồm nhiều này, chúng ta có thể biết
giới khinh của Phạm Võng tuy chỉ có 48 điều, kỳ thật cộng chung có 79 giới. Xin
hãy đếm xem: trong 6 điều “mang trọng” thành 12, trong 10 điều “gồm nhiều”
thành 35, và 32 điều thành lập đơn độc, tổng cộng lại không phải là 79 giới
sao? Nếu cộng 10 giới trọng vào thì thành 89 giới tướng khinh trọng của Kinh Phạm Võng.
Giới khinh rốt cuộc có bao nhiêu
điều, căn cứ theo Đại sư Pháp Tạng có 10 thứ nội dung bất đồng như sau:
1. Du già có 44 giới.
2. Hai kinh Địa Trì, Thiện Giới
tuy có hơi thêm bớt, nhưng vẫn đồng với Du già.
3. Bồ tát Nội Giới Kinh có 42 giới.
4. Kinh Thiện Sanh (Ưu bà tắc Giới) trừ 6 điều trọng ra,
riêng có 28 giới khinh.
5. Kinh Phương Đẳng trừ 24 thứ giới ra còn có 25 thứ chế
không nên làm.
6. Kinh Phạm Võng có 48 giới.
7. Nếu tìm kỹ nội dung văn tự
giới kinh của Phạm Võng, hoặc trong một
giới có nhiều thứ giới, luận chung gần một trăm giới.
8. Như Phạm Võng dẫn văn trong
phẩm “Bát Vạn Oai Nghi nói”, thì có 8 vạn thứ giới.
9. Theo như Nhiếp Luận, bản dịch
đời Lương dẫn Kinh Tỳ Nại Da Cù Sa La nói
Bồ tát giới có 10 vạn thứ sai biệt.
10. Nếu theo Luận Trí Độ nói, ít
thì có 8 vạn, nhiều thì có số như trần sa (cát bụi).
Ngoài ra còn thấy Kinh Dược Sư
nói “Bồ tát 400 giới”, nhưng chưa thấy nêu ra điều mục của 400 giới.
Trên thực tế, nội dung của Bồ
tát giới bao gồm tất cả, không thể dùng chữ số điều văn để liệt kê, nếu có phạm
vi để liệt kê thì thành hữu hạn, chẳng thể xứng danh tánh, như lý. Nội dung của
Bồ tát giới phải vô cực, vô hạn. Vì thế, Luận Trí Độ phải nói: “Nhiều như số
cát bụi”, là lý này vậy. Điều văn nêu ra trong các loại giới kinh chỉ là thô,
là thiết yếu, là hiển, là nêu đại cương mà thôi. Vì thế, chúng ta chẳng cần
nghiên cứu theo cách so sánh nội dung các điều văn và vấn đề giới mục nhiều ít,
mà chỉ cần các điều văn này là tâm hạnh của Bồ tát mới phát tâm phải y theo làm
cho đúng không được xao lãng, không được không học. Để tiện cho độc giả tham
khảo, nay đem giới mục giới khinh của năm loại giới bổn liệt vào biểu đồ đối
chiếu như sau: au: