THIÊN
THỨ BẢY. Bồ Tát Giới Cương Yếu
Chương 1.
Thứ Lớp Và Cảnh Giới Của Bồ Tát
I.
BỒ TÁT LÀ GÌ?
Chúng ta thông thường đều được
nghe xưng hiệu của Bồ tát, cho đến cũng có thể đem hai chữ Bồ tát làm lời khen
tặng người khác. Vì thế, một từ Bồ tát có ấn tượng đối với một số người đã là
cao quý, vĩ đại, mà cũng là bình dị gần gũi; đã là thiêng liêng không lường,
cũng là giản đơn phổ thông. Kỳ thực, người chân chính hiểu được thứ lớp và cảnh
giới của Bồ tát không có bao người. Còn người chưa từng nghe qua Phật pháp nhận
tất cả những tượng thần, tượng quỷ đắp bằng đất, khắc bằng gỗ, đều gọi là Bồ
tát, đấy là quan niệm của người chưa biết được ý nghĩa của Bồ tát.
Bồ tát nguyên là dịch âm của
Phạn văn của Ấn Độ: Bohisattva, dịch đủ là “Bồ đề tát đỏa” dịch ý là “Giác hữu
tình”. Giác nghĩa là giác ngộ, giác liễu, giác trị, giác kiến. Hữu tình nghĩa
là chúng sinh, chúng sinh là chúng duyên hòa hợp mà sinh, cũng có nghĩa là
nhiều sinh mạng. Nhưng trong nhiều sinh mạng của chúng duyên hòa hợp, có động
vật có tình ái và tình tánh, có thực vật cho đến khoáng vật v.v… không có tình
ái và tình tánh.
Ở đây nói chúng sinh là chỉ cho
sinh mạng có tình ái và tình tánh, vì thế gọi là hữu tình. Ba chữ “Giác hữu
tình” gồm có bốn tầng của hai lớp ý nghĩa. Một lớp là hữu tình chúng sinh phát
tâm, trên cầu vô thượng giác (Phật) đạo và cũng phát tâm khai hoá tất cả hữu
tình chúng sinh đều đắc Vô thượng giác (Phật) đồng thời cũng muốn làm cho tất
cả hữu tình chúng sinh đều ngộ kiến giác (Phật) tánh sẵn đủ của mỗi người. Hợp
lại mà nói, trên cầu Phật đạo để tự giác, dưới hoá độ chúng sinh để giác tha,
đây là ý nghĩa của Bồ tát.
Mục đích tin Phật, học Phật của
chúng ta là mong muốn chúng ta thành Phật, nhưng cảnh giới Phật là chí cao vô
thượng, rất tốt đẹp, rất lớn lao, rất sáng suốt, rất chân thật; hành trình của
con đường thành Phật cũng rất gian nan và xa xăm. Một người từ khi bắt đầu tin
Phật học Phật, phải trải quá trình thời gian ba-a tăng-kỳ kiếp và trăm kiếp,
mới đạt đến mục đích thành Phật. Ở thế gian không có chân bảo giá rẻ; càng khó
được, giá trị càng cao; thành Phật cũng vậy, Phật tuy khó thành nhưng rốt cuộc
cũng thành, nhưng phải trả giá một sự nỗ lực lớn lao. Giá trị này là Bồ tát
hạnh hoặc Bồ tát đạo: Trên cầu Phật đạo, dưới hoá độ chúng sinh. Không ngừng
tẩy rửa phiền não vô minh từ vô thỉ đến nay làm nhơ Tự tánh giác (Phật) thể.
Chính mình tẩy rửa phiền não vô minh, tăng trưởng trí tuệ, dùng trí tuệ này để
tự chiếu soi mình và cũng để chiếu soi người khác; giúp cho người khác tẩy rửa
phiền não vô minh, cũng có thể tăng trưởng phước đức của mình; dùng để lợi
mình, cũng dùng để lợi người. Đây là đạo Bồ tát song tu song hành trí huệ và
phước đức, cũng là theo từng giai đoạn tiến lên con đường thành Phật.
Do thực hiện con đường thành
Phật mà được gọi là Bồ tát. Thành Phật đắc quả là do thực hành hạnh Bồ tát. Bồ
tát đạo là chánh nhân của thành Phật, thành Phật là kết quả của Bồ tát đạo.
Muốn thành Phật trước tiên phải hành Bồ tát đạo, hành Bồ tát đạo chắc chắn sẽ
thành Phật.
II.
CẤP BẬC CỦA BỒ TÁT
Chính vì cái nhân thành Phật là
Bồ tát đạo rất dài, rất xa, vì thế trong kinh Phật phân nó ra thành giai đoạn
và thứ bậc. Cách phân biệt về cấp bậc của Bồ tát, theo Tông Thiên Thai gồm có
bốn loại: Tạng, Thông, Biệt, Viên. Bồ tát của Tạng giáo thuộc loại căn khí nhỏ,
không có phân cấp bậc. Nếu muốn luận về cấp bậc, chỉ có thể đem trình độ tu
chứng của Bồ tát loại này so sánh với cấp bậc của Tiểu thừa mà thôi. A tăng kỳ
kiếp thứ nhất là ở giai đoạn Ngũ đình tâm, biệt tướng niệm, tổng tướng niệm của
Tiểu thừa Phàm phu vị. A tăng kỳ kiếp thứ hai tương đương với Noãn vị của Tiểu
thừa Hiền vị. Mãn a tăng kỳ kiếp thứ ba tương đương với Đảnh vị của Tiểu thừa.
Qua ba đại A tăng kỳ kiếp mới là giai đoạn tu nhân 32 tướng đại nhân, tiến lên
từ Nhẫn vị vào Thế đệ nhất vị là thành Phật. Đây là nhân gian Phật thân sắc
vàng một trượng sáu của phàm phu và Tiểu thừa. Trong quá trình tu hành, các
Ngài không đoạn phiền não mà tu lục độ, còn bậc thánh Tiểu thừa đoạn phiền não
mà không tu lục độ. Vì thế, các Ngài là Đại thừa Bồ tát chứ không phải là phàm
phu và bậc thánh Tiểu thừa.
Bồ tát Thông giáo là loại căn
khí chứng cả Tam thừa, lấy giai đoạn Thập địa khái quát thứ lớp của Tam thừa.
Sơ địa là phàm phu của Sơ tín; Nhị địa là bậc Hiền; Tứ địa bằng với thánh nhân
Sơ quả của Tiểu thừa; Ngũ địa bằng với Nhị quả Tiểu thừa; Lục địa bằng với Tam
quả Tiểu thừa; Thất địa đồng với Tứ quả A la hán của Tiểu thừa; Bát địa đồng
với Bích chi ca Phật vị của Tiểu thừa; Cửu địa từ “Không ra Giả”, đắc pháp nhãn
và tập khí sắp hết, vì thế gọi là Bồ tát địa; địa thứ mười là Phật địa. Thất
địa trở về trước thông cả Tam thừa. Bát địa thông với Bích chi ca Phật. Tam
thừa này tuy mỗi thừa đều riêng bất đồng, song lại có nhiều đặc tính chung,
đồng quán Vô sinh, đồng chứng Vô học, đồng thoát khỏi Phần đoạn (tam giới) sinh
tử, đồng nhập vào Hoá thành Niết bàn (không sinh tử), vì thế gọi là thông giáo.
Bồ tát của Biệt giáo là một loại
chuyên nhiếp căn khí giới ngoại (ngoài tam giới), vì căn khí bất nhất cho nên
gọi là Biệt giáo. Tất cả phân 52 cấp bậc, đây là cách phân cấp thông thường
quen nói, cũng là một cách phân cấp mà chúng tôi cần phải giới thiệu kỹ càng.
Bồ tát của Viên giáo cùng Biệt
giáo bất đồng, Biệt giáo là lần lượt tiệm tu, Viên giáo là nhất tâm trọn đủ,
chỗ gọi là dùng viên văn, viên tu mà tu viên hạnh. Cấp bậc của Biệt giáo là
riêng biệt và phải theo cấp tu chứng. Viên giáo tuy cũng có cấp bậc sai biệt của
phàm phu, Hiền thánh, nhưng cấp nào cũng tương dung, bậc nào cũng tương nhiếp.
Phàm phu vị (Ngoại phàm ngũ phẩm) của Viên giáo cũng được gọi là Phật, đó là
Quán hạnh tức Phật.
Bậc Hiền vị (Nội phàm Thập tín)
được gọi là Tương tự tức Phật, bậc Thánh (Thập trụ) vị được gọi là Danh tự tức
Phật, còn phải trải qua Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, rồi đến
Diệu giác vị mới gọi là Cứu cánh tức Phật. Sơ tín của Viên giáo cũng được gọi
là thành Phật, nhưng đó chỉ là biết bổn tánh của chính mình là Phật, chứ không
phải là Phật của cứu cánh viên mãn.
III.
NĂM MƯƠI HAI CẤP BẬC BỒ TÁT
Trong các kinh Đại thừa Bồ tát
Giới có đề cập đến cấp bậc của Bồ tát, chỉ có Kinh Phạm Võng và Kinh Anh Lạc.
Kinh Phạm Võng quyển thượng lấy Tập chủng
tánh, Trưởng dưỡng tánh và Tánh chủng tánh, Bất khả hoại tánh, Đạo
chủng tánh, Chánh pháp tánh để nói về cấp bậc thứ lớp của Thập trụ, Thập hạnh,
Thập hồi hướng, Thập địa, Phật địa; và Thập phát thú, Thập trưởng dưỡng, Thập
kim cương, Thập địa để biểu đạt công năng tác dụng Hiền thánh của Thập trụ,
Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa. Văn tự của Kinh Phạm Võng tối tăm khúc
mắc, rất khó hiểu, và lại có người cho rằng: Kinh mạo, không đủ làm tin (Điều
này sẽ bàn kỹ ở đoạn sau), vì thế chúng tôi căn cứ vào Kinh Anh Lạc để giới thiệu.
Bồ tát trong Kinh Hoa Nghiêm
cộng phân có 52 cấp bậc, trên thực tế có thể được gọi là Hiền và Thánh chỉ có
42 cấp bậc, lại vì một cấp bậc sau chót là Phật, nên cấp bậc Hiền thánh của Bồ
tát chỉ có 41, cộng thêm mười cấp bậc phàm phu (giả danh) Bồ tát thành ra 51
cấp bậc.
Kinh Anh Lạc cũng đem sáu giai
đoạn lớn của Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác,
Diệu giác phân thành sáu tánh vị là: Tập chủng tánh, Tánh chủng tánh, Đạo chủng
tánh, Thánh chủng tánh, Đẳng giác tánh, Diệu giác tánh, đại khái tương tự với
Kinh Phạm Võng và có chút bất đồng. Các
nhà Duy Thức thêm Tứ gia hạnh vị vào sau Thập hồi hướng thành ra
56, thông thường vẫn lấy cách phân của Hoa Nghiêm làm chủ yếu.
Quá trình học Phật của chúng ta
là ba A tăng kỳ kiếp vun trồng phước huệ, trăm kiếp tu tướng hảo. Đây là bắt
đầu kể từ khi tiến vào Thập trụ của Hiền vị. Thập tín vị của giai đoạn phàm phu
trước Hiền vị không được bao gồm trong ấy. Theo Kinh Anh Lạc nói: “Phật tử tu
hành mười tâm này hoặc trải qua một kiếp, hai kiếp mới được nhập vào Sơ trụ
vị”. Đây là nói từ lúc đầu tiên phát tâm tin Phật học Phật, tu hành liên tục
không gián đoạn, phải trải qua từ một đến ba kiếp mới có hy vọng tiến vào cấp
bậc Sơ trụ Bồ tát của Hiền vị, nhưng Luận Đại Thừa Khởi Tín nói:”Tu hành tín
tâm trải qua một vạn kiếp “, nghĩa là: Từ lúc mới phát tâm đến tín tâm công đức
thành tựu và tiến vào Sơ trụ vị, cần phải trải qua thời gian mười ngàn đại kiếp!
Đây so với Kinh Anh Lạc nói, lâu xa hơn quá nhiều. Nhưng ở đây có một cách giải
thích: Tâm chí của phàm phu là không kiên cố, không chân thật, vì thế trong mấy
mươi năm của một đời người ngắn ngủi cũng khó làm đến tán tâm bất thoái, hoạt
động của thân tâm phàm phu đều là thiện ác lẫn lộn, nửa tin nửa nghi, hà huống
chúng ta ở trong dòng nước biển lớn sinh tử chìm nổi, lên xuống luân hồi không
thôi! Đời này tin Phật, học Phật, nếu nguyện lực không kiên cố, tín tâm không
chân thật, hành vi không thanh tịnh, ý niệm không chính xác, đời sau lại rất
khó tin Phật pháp. Nhưng đã từng vun trồng nhân tố tin Phật, qua một thời gian
tương đương sẽ hiển hiện lại, sẽ tin Phật, học Phật lại, giống như bỏ một hạt
cát có màu vào trong một chum nước đục, rồi dùng cây gậy quậy nó, hạt cát có
màu ấy tất nhiên sẽ thường thường hiện ở trên mặt nước, lại thường thường chìm
ở trong nước, và cơ hội hiển hiện ở trên mặt nước rất ít, còn cơ hội chìm trong
nước rất nhiều, trừ phi lấy nó đem ra khỏi nước mới được một phen hiển hiện.
Phàm phu tin Phật, học Phật, tình trạng cũng giống như vậy. Nhân vì tín tâm và
nguyện lực của con người đều riêng có sai khác, vì thế, quá trình thời gian của
sự học Phật cũng đều riêng có dài, ngắn, sai khác, bất đồng. Nói mười ngàn đại
kiếp hoặc một, hai, ba kiếp, đó cũng chỉ là nói đại khái về đơn vị thời gian.
Nếu như tín tâm kiên định, nguyện lực kiên cố, có thể ở trong một, hai, ba
kiếp, cho đến chẳng cần một, hai, ba kiếp, cũng có thể tiến nhập vào Hiền vị
của Sơ trụ. Vì thế, Viên giáo có nói: Người thượng căn một đời liền nhập vào Sơ
trụ vị (tương đương với Phật vị của Tạng giáo); trái lại, nếu như tín tâm bạc
nhược nguyện lực không kiên cố, căn khí hạ liệt, giả sử trải qua mười ngàn đại
kiếp cũng chưa chắc có thể tiến nhập vào cấp bậc Sơ trụ.
Nay đem 52 cấp bậc của 6 giai
đoạn lớn chia ra trình bày như sau:
1. Thập tín vị
Thập tín còn được gọi là Thập
tín tâm, đó là: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Huệ tâm, Định tâm, Bất thoái
tâm, Hồi hướng tâm, Hộ pháp tâm, Giới tâm và Nguyện tâm.
Trong sự lần lượt thăng tấn của
10 cấp bậc này, Bồ tát phải điều phục kiến hoặc và tư hoặc của tam giới. Kiến
hoặc là tất cả vọng kiến như ngã kiến và biên kiến. Tư hoặc là tất cả phiền não
như những mê tình của tham, sân, si. Trong Thập tín vị này tuy không thể đoạn trừ
sạch hết kiến hoặc, tư hoặc, nhưng phải điều phục nó, không cho nó tiếp tục gây
họa. Bằng không, không thể nào nhập vào Hiền vị, hằng bị phiền não của tam giới
trói buộc, vĩnh viễn trầm luân trong dòng nước xoáy lớn sinh tử của tam giới.
2. Thập trụ vị
Thập trụ còn được gọi là Thập
trụ tâm, đó là: Phát tâm trụ, Trị địa tâm trụ, Tu hành tâm trụ, Sinh quý tâm
trụ, Phương tiện cụ trúc tâm trụ, Chánh tâm trụ, Bất thoái tâm trụ, Đồng chân
tâm trụ, Pháp vương tử tâm trụ và Quán đảnh tâm trụ.
Trong Thập trụ vị này, Sơ trụ
đoạn trừ kiến hoặc của tam giới nội, Đệ thất trụ đoạn trừ tư hoặc của tam giới
nội, đến đây không còn bị các phiền não tham, sân, si làm mê hoặc; vì thế không
còn tiếp tục gia tăng nghiệp lực sinh tử, được chứng nhập vào cảnh giới của Vị
bất thoái. Đệ bát trụ trở lên đoạn từ trần sa của tam giới nội, điều phục trần
sa của tam giới ngoại. Trần sa là một thứ hoặc của ba hoặc (Kiến tư, Trần sa,
Vô minh) của Tông Thiên Thai lập. “Kiến tư hoặc” chướng ngại đạo Niết bàn của
chúng ta và khiến cho trầm luân sinh tử. “Trần sa hoặc” chướng ngại đạo Bồ đề
hoá độ chúng sinh của chúng ta và khiến cho không thể thành Phật. Ở đây gọi
Trần sa cũng tương tự như Tông Duy Thức gọi là Sở tri chướng. Do sở tri có
chướng nên không thể thông đạt pháp môn độ chúng sinh nhiều như số trần sa (cát
bụi), vì thế gọi là Trần sa. Trong 10 vị này dùng pháp quán tưởng “từ Giả nhập
Không” được thấy lý chân đế mà khai huệ nhãn thành Nhất thiết trí. “Không
trí”biết suốt tất cả các pháp đều là tịch diệt nhất tướng, gọi trí đó là Nhất thiết
trí. “Tịch diệt, Không, Như” là thật tướng của vạn pháp, vì thế gọi là lý chân
đế.
3. Thập hạnh vị
Thập hạnh còn gọi là Thập hạnh
tâm, đó là: Hoan hỷ tâm hạnh, Nhiêu ích tâm hạnh, Vô sân hận tâm hạnh, Vô tận
tâm hạnh, Ly si loạn tâm hạnh, Thiện hiện tâm hạnh, Vô trước tâm hạnh, Tôn
trọng tâm hạnh, Thiện pháp tâm hạnh và Chân thật tâm hạnh.
Trong Thập hạnh vị này, thứ lớp
đoạn giới ngoại trần sa, dùng pháp quán tưởng “từ Không nhập Giả”, lấy lý tục
đế mà khai thị pháp nhãn thành Đạo chủng trí. Đạo chủng trí còn được gọi là Đạo
chủng huệ. Đạo cũng có thể hiểu là pháp môn. Pháp môn có vô lượng, Đạo cũng có
vô lượng, trí tuệ thông đạt đạo vô lượng được gọi là Đạo chủng trí. Từ chân đế
mà nói, thật tướng các pháp là “Không, Như, Tịch diệt”, nhưng muốn thể hội thật
tướng các pháp cần phải từ Giả tục nhập vào Chân. Nhân vì sự tồn tại của chúng
sinh là tồn tại ở trong giả tướng, hoặc tục đế của huyễn hữu hư vọng, lợi dụng
trí huệ thông đạt vô lượng pháp môn này để tự cứu mình và cứu người, đó là từ
“Không nhập Giả”, là thấy lý tục đế. Đoạn trước nói “Huệ nhãn” là chỉ cho thấy
“lý chân đế” là trí tuệ biết thật tướng các pháp. Ở đây nói “ Pháp nhãn” là chỉ
cho đắc đến “lý tục đế”, là trí tuệ thông đạt pháp môn cứu độ chúng sinh.
4. Thập hồi hướng vị
Thập hồi hướng vị còn gọi là
Thập hồi hướng tâm, đó là: Cứu độ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi
hướng tâm, Bất hoại hồi hướng tâm, Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng tâm, Chí nhất
thiết xứ hồi hướng tâm, Vô tận công đức hồi hướng tâm, Tuỳ thuận bình đẳng
thiện căn hồi hướng tâm, Tuỳ thuận đẳng quan nhất thiết chúng sinh hồi hướng
tâm, Như tướng hồi hướng tâm, Vô phược giải thoát hồi hướng tâm, Pháp giới vô
lượng hồi hướng tâm.
Mười cấp bậc của Thập hồi hướng
tâm này điều phục vô minh, tu tập trung quán. Ở đoạn trước đã nói vô minh cũng
là một hoặc trong ba hoặc của Tông Thiên Thai lập ra: Kiến tư hoặc chướng ngại
đạo Niết bàn, Trần sa hoặc chướng ngại đạo Bồ đề, Vô minh hoặc chướng ngại đạo
Trung quán. “Bất chân bất tục; tức chân tức giả” thấy thật tướng tịch diệt của
chân đế, nhưng không kẹt vào trên một niệm của tịch diệt; thấy tục đế hư huyễn,
vì thế tuỳ thuận hoá đạo mà không nhiễm tục tình, đấy là đạo lý trung quán. Vô
minh là một thứ phiền não vi tế, dứt đi một phần vô minh liền chứng được một
phần đạo lý trung quán. Thập hồi hướng vị chỉ là điều phục vô minh. Sơ địa trở
lên mới có thể lần lượt đoạn vô minh. Vô minh từng phần đoạn trừ, Thánh vị từng
địa lên cao, thẳng đến Đẳng giác Bồ tát đoạn hết một phần vô minh rốt mới vào
Phật địa, thành Đẳng chánh giác. Vì thế, ngay trong Thập hồi hướng vị còn chưa
chứng đắc Trung đạo quán, chỉ do điều phục vô minh mà tu tập trung quán. Nhưng
từ Đệ bát trụ đến Thập hồi hướng viên mãn đã là tu hành trung đạo đến Đệ nhị
bất thoái của ba bậc bất thoái, đây gọi là Hạnh bất thoái. Cũng là nói Đạo giải
thoát sở chứng đã cùng với Trung đạo đệ nhất nghĩa đế hợp nhất tương ưng mà
thành.
Đến vấn đề thoái cùng bất thoái,
Kinh Anh Lạc có nói như vầy: Nếu một kiếp, hai kiếp cho đến mười kiếp tu hành
Thập tín, được vào Thập trụ, người này từ Sơ trụ đến Đệ lục trụ, nếu tu một độ
thứ sáu Bát nhã ba la mật của lục độ, chánh quán hiện tiền, lại gặp được chư
Phật, Bồ tát, thiện tri thức hộ niệm, tiến lên Đệ thất trụ thường trụ bất
thoái. Lại nói: Nếu không gặp thiện tri thức hoặc một kiếp, hai kiếp cho đến
mười kiếp thoái Bồ đề tâm; trong thời gian ấy, vì gặp nhân duyên xấu ác thoái
nhập vào trong phàm phu không thiện không ác, không được gọi là Tập chủng tánh,
thoái nhập vào ngoại đạo hoặc một kiếp hoặc mười kiếp cho đến ngàn kiếp làm đại
tà kiến và ngũ nghịch, không có điều ác nào không tạo, đây là “Thoái tướng”. Do
đây đủ thấy Bồ tát tu hành phải lấy Bát nhã (trí huệ) làm chủ yếu, không tu Bát
nhã không thể nhập vào Đệ thất trụ vị, không nhập vào Đệ thất trụ vị thì khó
bảo đảm bất thoái. Nếu một phen bị lui sụt tuy đến Lục trụ cũng có thể làm ác,
ngàn kiếp không biết quày đầu.
5. Thập địa
Địa có nghĩa là hay sinh, hay
chở; hay sinh ra ở vô lượng pháp môn của vô lượng công đức, hay chở vô lượng
chúng sinh đến cứu cánh Phật địa. Địa nào cũng hay sinh, địa nào cũng hay chở;
khả năng địa ở bậc trên rộng lớn hơn địa ở bậc dưới, thẳng đến cứu cánh Phật
địa là đồng hư không khắp pháp giới rộng lớn không ngằn mé, cao sâu không giới
hạn. Thập địa là: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động
địa, Thiện huệ địa và Pháp vân địa.
Từ Sơ trụ đến Thập hồi hướng
cộng chung có 30 cấp bậc là Hiền giả vị của Bồ tát, thông thường gọi tắt là Tam
hiền vị. Một niệm sau cùng của thập hồi hướng trước tiên phá một phần vô minh
nhập vào Sơ địa. Thập địa tu tập Trung đạo quán, dùng Trung đạo quán phá một
phần vô minh hiển một phần tam đức mà chứng Đệ tam bất thoái là Niệm bất thoái,
khai Phật nhãn, thành Nhất thiết trí. Sơ địa trở lên là Thánh vị Bồ tát.
Sự phân biệt giữa Thánh vị và
Hiền vị là có tu chứng Trung đạo quán hay không. Chỉ cần tu một phần Trung đạo
quán là phá một phần vô minh, hiển một phần tam đức. Trí huệ phá trừ vô minh và
hiển hiện tam đức được gọi là Phật nhãn. Ở đây nói Phật nhãn thật ra là chỉ cho
trí tuệ thể chứng bất chân bất tục và tức giả tức chơn mà thôi. Thể chứng được
đạo lý chân tục viên dung là khai mở Phật nhãn, nhưng đây tuyệt không phải chỉ
nói trên cửa miệng, mà nhất định phải sau khi thân chứng tâm tánh triệt để mới
kể. Biết được tất cả pháp, tất cả tướng “Không, Như, Tịch diệt”; lại biết được
các thứ phân loại sai biệt của tất cả pháp, tất cả tướng, trí huệ của không hữu
song chiếu chân tục viên dung như thế, gọi là Nhất thiết chủng trí. Kỳ thật,
Trung đạo quán, Phật nhãn, Nhất thiết chủng trí đều là chỉ cho trí huệ hay phá
vô minh hay hiển tam đức mà thôi. Hiển tam đức rồi mới nhập vào thánh vị.
Tam đức là bí mật tạng Đại Niết
bàn, đó là: Thể chứng bản thể Phật tánh, gọi là Pháp thân đức; rõ biết tất cả
pháp tướng đúng như thật, gọi là Bát nhã đức, xa lìa tất cả hệ phược được đại
tự tại, gọi là Giải thoát đức. Vì thế sinh tử của Bồ tát từ Sơ địa trở về trước
là do nghiệp lực quyết định, không được tự chủ. Sinh tử của Thánh vị Bồ tát từ
Sơ địa trở lên là do nguyện lực của chính mình quyết định, có thể tự do làm
chủ.
Niệm bất thoái là chỉ cho trình
độ rõ biết bản tế của Sinh tử và Niết bàn, của Phiền não và Bồ đề. Sinh tử Niết
bàn, Phiền não Bồ đề bất nhất, bất dị (không một, không khác), niệm niệm được
cùng Phật trí tương ưng. Vì thế, Bồ tát từ Sơ địa trở lên có thể tự do hoá
hiện, tuy là Bồ tát mà có thể phân thân trăm cõi, xuất hiện với tư thái Đức
Phật giáo hoá chúng sinh hữu duyên. Nhưng muốn cứu cánh thành Phật còn phải
trải qua các địa phá trừ vô minh, mỗi địa phần chứng trung đạo, mỗi địa hiển
thêm tam đức, mỗi địa khai mở một phần Phật nhãn. Đến đệ thập Pháp vân địa phá
thêm một phần vô minh nữa, tiến vào cấp bậc Đẳng giác của Nhất sinh bổ xứ. Đẳng
giác nghĩa là tương đẳng với Phật nhưng còn có chút bất đồng. Đến vị Đẳng giác
Bồ tát, trừ Đức Phật ra không ai biết được chỗ bất đồng giữa Đẳng giác và Phật.
Chữ “Sinh” của Nhất sinh bổ xứ
là chỉ cho còn có một phần biến dịch sinh tử chưa liễu thoát. Phàm phu và Bồ
tát Hiền vị có sự sinh tử của xuất thai nhập thai mà lại già bệnh chết, gọi là
Phần đoạn sinh tử. Bồ tát thánh vị từ Sơ địa (Kinh Anh Lạc nói từ Bát địa) trở
lên thoát ly phần đoạn sinh tử của tam giới. Các Ngài mỗi khi phá một phần vô
minh, tiến lên một tầng, cũng gọi là sinh tử, đó là Biến dịch sinh tử; chỉ còn
một phần vô minh, chỉ còn tiến lên một bậc Đẳng giác Bồ tát nữa, thì gọi là
Nhất sinh bổ xứ. Nhưng cũng có thể giải thích là còn có một lần bát tướng thành
đạo: Từ cung tời Đâu Suất giáng sinh xuống nhân gian, nhập thai, xuất thế, xuất
gia, thành đạo, thuyết pháp, Niết bàn, chẳng còn thọ sinh nữa.
Từ trên đã giới thiệu sơ lược về
cấp bậc của Bồ tát, nếu muốn luận kỹ mỗi một cấp bậc đều có ý nghĩa bất đồng,
vì giới hạn của nội dung quyển sách này chỗ này chỉ có thể trình bày như thế.
IV.
BIỂU ĐỒ GIẢI THÍCH VỀ CẤP BẬC TỪNG LỚP CỦA BỒ TÁT
Để tiện cho độc giả ghi nhớ,
chúng tôi đem kiếp số từng lớp và quả báo thế gian của các cấp bậc Bồ tát phân
làm hai biểu đồ như sau:
Về cách tính thời gian thành
Phật, trong Phật điển có nhiều thứ, trong biểu đồ này là do bút giả căn cứ vào
tư liệu tham khảo tổng hợp mà thành, chính xác hay không còn chờ bậc cao minh
ấn chứng.
Kiếp là gọi tắt của chữ kiếp ba
(kalpa) của Phạn ngữ, thông thường người Ấn Độ dùng làm đơn vị tính thời gian,
vì thế ứng dụng của chữ kiếp rất là rộng rãi hàm nghĩa của kiếp cũng có ngắn,
dài. Nhưng kiếp thường được giải thích như sau: con người thọ từ 8 vạn 4 ngàn
tuổi cứ 100 năm giảm một tuổi, dần dần giảm đến con người thọ 10 tuổi, rồi lại
từ 10 tuổi cứ 100 năm tăng lên một tuổi, dần dần tăng đến con người thọ 8 vạn 4
ngàn tuổi. Quá trình một thời gian một lần giảm, một lần tăng như thế, gọi là
một tiểu kiếp, 20 tiểu kiếp là một trung kiếp, 4 trung kiếp là một đại kiếp.
Thông thường trong kinh nói bao nhiêu kiếp là chỉ cho đại kiếp.
A tăng kỳ là dịch âm chữ Phạn:
Asamkhya, nghĩa là vô lượng số, đây là một thứ tên gọi con số lớn của Ấn Độ,
nếu hỏi một A tăng kỳ là bao nhiêu? Có thể miễn cưỡng đáp: Lấy vạn vạn làm một
ức, lấy vạn ức làm một triệu, thời gian một A tăng kỳ ước lượng là một ngàn vạn
vạn vạn vạn vạn vạn vạn vạn triệu kiếp. Đây là thời gian rất dài, nhưng theo
cách tính của Kinh Anh Lạc lại có sự bất đồng, ở đây không cần nêu ra.
Đem 52 cấp bậc phối với ba kỳ
trăm kiếp cũng có nhiều thuyết. Có thuyết phân chia theo thời gian, đem Thập
tín vào trong A tăng kỳ kiếp thứ nhất đến Thập địa là mãn ba A tăng kỳ kiếp,
lại thêm trăm kiếp tu 32 tướng, 80 vẻ đẹp. Một trăm kiếp này có phải ở trong
giai vị Đẳng giác hay không, cũng không thấy trong kinh nói rõ, cứ suy lý thì
có vẻ ở trong giai vị Đẳng giác. Có thuyết phân chia theo con số cúng dường chư
Phật, như Đại sư Trí Giả căn cứ vào thuyết của Luận Trí Độ, Luận Câu Xá, Luận
Bà Sa nói: Gặp bảy vạn năm ngàn Đức Phật là A tăng kỳ kiếp đầu tiên, lại gặp
bảy vạn sáu ngàn Đức Phật là A tăng kỳ kiếp thứ hai, lại gặp bảy vạn bảy ngàn
Đức Phật nữa là mãn A tăng kỳ kiếp thứ ba. Ba kỳ hoàn thành, lục độ tu xong,
lại trải qua trăm kiếp tu nhân tướng hảo mới thành Phật quả. Nếu căn cứ vào
thuyết của Kinh Hiền Ngu thì: A tăng kỳ kiếp đầu tiên cúng dường tám vạn tám
ngàn Đức Phật, A tăng kỳ kiếp thứ hai cúng dường 9 vạn 9 ngàn Đức Phật. A tăng
kỳ kiếp thứ ba cúng dường mười vạn Đức Phật.
Trên thực tế, số kiếp thời gian
dài ngắn và cúng dường chư Phật nhiều ít, đều là căn cứ vào căn khí sâu cạn và
trình độ nỗ lực của mỗi người mà định. Nếu căn khí sâu dày và lại nỗ lực không
lười mỏi thì ba đại A tăng kỳ kiếp có thể sẽ không dài đến như thế. Nếu như căn
khí cạn mỏng mà lại buông lung biếng nhác, ba đại A tăng kỳ kiếp còn dài hơn đã
nói ở trên. Đến như cúng dường chư Phật nhiều ít lý cũng như vậy. Nếu kiền
thành cúng dường, sống chết không thay đổi, suốt đời chăm lo thì công đức cúng
dường một Đức Phật cũng rất lớn. Nếu như biếng nhác, tâm ý không thành kính,
ngẫu nhiên cúng dường, trong suốt một đời cũng khó cúng dường được hai, ba lần.
Như vậy, tuy cúng dường ngàn Phật, vạn Phật, công đức vẫn không nhiều. Vì thế,
chúng ta học Phật không cần tính thời gian dài ngắn, chỉ cần hỏi mình có hết
lòng hay không? Theo trong kinh nói, Thế Tôn Thích Ca cùng Bồ tát Di Lặc đồng
thời phát tâm, vì Đức Phật Thích Ca tinh tấn nên thành đạo trước, ngài Di Lặc
giải đãi cho nên đến sau, đây là một bằng chứng rõ ràng. Lại như Phật ở trên
hội Pháp Hoa thọ ký thành Phật cho các đại đệ tử: Ma ha Ca Diếp phải phụng thờ
ba trăm vạn ức Phật rồi sau mới thành Phật; Ca Chiên Diên phải cúng dường hai
vạn tám ngàn ức Phật, sau mới thành Phật; Mục Kiền Liên phải cúng dường hai
trăm vạn ức tám ngàn Đức Phật, sau mới thành Phật; trong đó, con số cúng dường
chư Phật cũng đều bất đồng.
1. Biểu đồ nói về Bồ tát đoạn
hoặc và quả báo thế gian (Xem trang bên)
Bồ tát vốn là xuất thế mà không
lìa thế gian, vì đoạn phiền não nên phải xuất thế, vì độ chúng sinh nên phải ở
thế gian. Bồ tát ở tại thế gian tự phải theo phước đức của mình cảm được quả
báo thế gian. Nhưng đây chỉ là quả báo của thế gian đáng được của Bồ tát, không
đồng với sự bắt buộc phải có quả báo thế gian, bởi vì Bồ tát cấp bậc càng cao
thì phạm vi càng lớn và phẩm loại hoá hiện cao, cũng có thể hoá hiện thấp, như
Bồ tát Đẳng giác được cảm quả báo Tam Giới Vương (vua tam giới) cũng có thể hoá
làm vua của tam đồ, đến trong địa ngục, ngạ quỷ thì làm quỷ vương, đến trong
súc sinh thì làm thú vương, trong loài ngưới làm nhân vương, cho đến hoá làm
Tam giới vương. Cho nên cũng không thể khẳng định Bồ tát một cấp bậc nào nhất
định phải cảm được quả báo thế gian ở một đẳng cấp nào. Đẳng cấp của quả báo,
mỗi cấp bậc đều có một hạn độ cao nhất, trong biểu đồ liệt kê là hạn độ cao
nhất của quả báo của các cấp bậc mà thôi. Điểm này chúng ta cần phải hiểu rõ,
đồng thời chúng ta từ trên trình độ của phần vị đoạn hoặc cũng có thể tự mình
xét nét công phu tu trì của mình cứu cánh đã đến cấp bậc nào? Không nên quên
lãng điều phục kiến hoặc tuy có kết quả là không bị thiên kiến, ngã kiến làm mê
hoặc; cũng như điều phục tư hoặc tuy có kết quả là không bị tham, sân, si
chuyển động, nhưng vẫn còn ở trong giai đoạn phàm phu của Thập tín vị mà thôi.
Ngày nay có một vài người tự cho rằng mình tự khai ngộ, kiến đạo, nhập Hiền,
xuất Thánh, tôi tin rằng đa số họ qua không nổi sự khảo nghiệm.
V.
BỒ TÁT HẠNH PHẢI NHƯ THẾ NÀO?
Được người gọi là Bồ tát là rất
dễ dàng, chính mình muốn được gọi là Bồ tát cũng rất dễ dàng, nhưng muốn chân
chính làm đến hành vi của Bồ tát thì khó lắm! Bồ tát tuy phân chia ra phàm phu
và Hiền Thánh, không cần Bồ tát mới phát tâm làm được như Bồ tát thánh vị,
nhưng mục tiêu của Bồ tát hạnh vẫn là một, ước vọng của Bồ tát đạo là tương
đồng. Chúng ta tuy chưa từng đạt đến mục tiêu nhưng chẳng nên không có ước
vọng. Nhân đây tôi xin trích một đoạn văn trong Bồ tát Nội Giới Kinh để tham
khảo: “Bồ tát đạo rất khó, ta (Phật) đã không tiếc thân mạng hy sinh rất nhiều
để cứu tế chúng sinh.
Làm một vị Bồ tát dĩ nhiên không
được làm ác và tạo tội nhưng vì cứu độ chúng sinh cũng quyết không sợ vì cứu
chúng sinh mà chính mình phải làm ác tạo tội.
Lúc nghiệp báo của đời trước
đến, hoặc lúc chủ nợ đến đòi, Bồ tát chỉ vui vẻ đón rước mà không sợ hãi, bởi
vì lúc đó tội nghiệp của mình sớm được tiêu trừ.
Làm một vị Bồ tát thọ trì Phật
pháp là phải sống hoàn toàn như pháp, thọ Phật giới rồi phải sống thanh tịnh
đúng như luật.
Bồ tát phải có tín tâm kiên cố
mới được cứu cánh thành Phật, phải học rộng các thứ tri thức trong ngoài mới có
thể tuỳ thuận giáo hóa chúng sinh một cách rộng lớn; phải dùng tâm từ bi, lời
nói dịu dàng khi đến gần gũi chúng sinh, không nên trái lại làm tổn thương
người khác.
Bồ tát tuy không ngại gì sống
chung với vợ con, nhưng phải xem như ngăn ngừa oan gia, cẩn thận đề phòng vợ
con phá hoại đạo niệm của mình. Tuy cẩn thận đề phòng vợ con như nuôi oan gia,
mà không bao giờ được đem thái độ oan gia đối đãi với vợ con, phải thường có
lòng thương yêu và săn sóc.
Bồ tát phải xem người nữ như kẻ
dữ, rắn độc, nhưng cũng không sợ sự phá hoại và dao động của ái dục, vì tâm địa
của Bồ tát thanh tịnh như hoa sen, tuy sinh ở trong bùn nhơ nhưng không dính
bùn nhơ. Bồ tát là người ly dục, xa dục, tuy vì độ chúng sinh mà vào trong trận
tuyến ái dục, nhưng lại không nhân đây mà bị ái dục làm nhiễm ô.
Bồ tát ở một mình trong núi sâu
không cảm thấy sợ hãi. Tuy vẫn sinh hoạt với vợ con trong gia đình mà vẫn xem
như sống một mình trong núi sâu. Tâm thường vui vẻ, an tịnh, không có tư tưởng
phân biệt thống khổ và an lạc.
Làm một vị Bồ tát chân chính
phải có thể vào nước không chìm, vào lửa không cháy, có người muốn xin óc não
liền cho người ấy óc não, có người muốn xin mắt thì cho người ấy con mắt, có
người muốn xin mũi liền cho người ấy cái mũi, có người muốn xin vành tai thì
cho người ấy vành tai. Giả sử đem thân cho cọp ăn cũng không tiếc thân mạng.
Chỉ có như thế mới là công đức tôn quý của hàng Đại sĩ Bồ tát”.
Kinh văn trích dịch ở trên có
thể là dịch chưa được hay theo nguyên ý, độc giả nếu có khả năng có thể tự tìm
nguyên bản kinh văn đối chiếu. Kinh này in trong Đại Chánh Tạng tập thứ 24, trang 1031 – 1032.
Bồ tát được thuật trong đoạn văn
trên phần nhiều là chỉ Thánh vị, chứ chẳng phải hàng phàm phu có thể làm đến.
Trên thực tế, như trong Kinh Anh Lạc nói, phàm phu của Thập tín vị là “Danh tự
Bồ tát” hoặc “Giả danh Bồ tát”, đến Sơ địa rồi mới là “Thiệu Bồ tát vị” (nối
ngôi vị Bồ tát) trở thành Bồ tát chân chính. Nhưng đã nguyện làm Phật thì phải
mong làm Thánh, làm Hiền, để sau cùng đạt đến trình độ của Thánh vị.