Chương 4.
Giới Trọng Yếu Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni
I. NHỮNG GÌ LÀ GIỚI TRỌNG YẾU?
Vì nội dung của quyển sách có
giới hạn nên không thể đem in toàn bộ Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni giới mỗi mỗi giới
thiệu, ở đây chỉ đề xuất cương yếu, nêu ra đại khái, nếu độc giả có chí học
giới, trì giới, tự có thể xem trong các Đại Luật.
Phật giới đều là trọng yếu,
nhưng những giới nào so ra trọng yếu hơn? Đại sư Hoằng Nhất có khai thị trong
bộ Tứ Phần Giới Bổn Tùy Giảng Biệt Lục
của Ngài như vầy: “Nói theo tiêu chuan thấp nhất, trong chỉ trì, 4
tội khí, 13 Tăng tàn, 2 pháp Bất định đều phải tịnh trì. Trong tác trì, kiết
tăng giới, thọ giới, sám tội thuyết giới, an cư, tự tứ cũng dễ hành”. Lại nói:
“Trong oai nghi như tánh tội (giới giết súc sinh, giới vọng ngữ) và những điều
nước ta (Trung Quốc) chê trách hơn hết (các giới uống rượu, ăn phi thời và quan
hệ với nữ Ni) đều phải trì, ngoài ra đều có phải tùy sức”. Đây là ý kiến rất
quý báu. Về giới sát sinh và tiểu vọng ngữ trong oai nghi đã được giới thiệu qua
trong thiên ngũ giới. Đến các vấn đề oai nghi của uống rượu, ăn phi thời, và nữ
Ni, trong quyển “Phật giáo Chế Độ và Sinh Hoạt”, tôi đã viết 2 thiên “Quy chế
ăn uống của Phật giáo” và “Nam nữ quan của Phật giáo” chuyên thảo luận những
vấn đề này, ở đây không lặp lại. Nay cần phải giới thiệu là 4 pháp khí, 13 Tăng
tàn, 2 pháp Bất định.
II.
BỐN PHÁP KHÍ
Pháp Ba la di của Tỳ kheo và Tỳ
kheo Ni tuy có nhiều ít bất đồng, nhưng chủ yếu là 4 giới căn bản:
1. Giới dâm, phân làm 2 thứ: Một
là tự mình dâm người khác, hễ có tâm dâm dục nơi miệng và đường đại tiện của
nam tánh, nơi âm đạo, đại tiện đạo và miệng của nữ tánh, cho đến ba chỗ của súc
sinh và thây chết hơn phân nửa chưa loại, nhập vào như đầu sợi lông, bèn phạm
Ba la di. Hai là người khác dâm mình, bị oan gia hoặc cường bạo bức hiếp, hoặc
trong khi ngủ người khác đến hành dâm, ngay lúc nhập vào, đã nhập, lúc ra,
trong ba thời có một niệm cảm thọ khoái lạc, phạm tội Ba la di. Tỳ kheo Ni thì
đổi làm ba chỗ chủ động nhận người khác hành dâm nhập vào như đầu sợi lông thì
phạm Ba la di. Bị người khác hiếp dâm, trong ba thời có một niệm cảm thọ khoái
lạc cũng phạm Ba la di.
Nhưng tội nghiệp Ba la di của
giới dâm cũng có chia ra khinh trọng. Đại sư Hiền Thủ Pháp Tạng trong Bồ tát
Giới Bổn Sớ phân thành 6 vị: Ước cảnh
(cao thấp), ước tâm (mạnh yếu), hợp biện (tâm cảnh), ước số (nhiều
ít), ước xu hướng (ẩn hiện), ước tổn (đức của mình, của người) để nói về sự sai
biệt khinh trọng cảu giới dâm. Ở đây chỉ lấy một vị ước cảnh để giới thiệu, các
vị khác có thể theo đây suy ra mà biết. Cảnh có 10 thứ:
1. Thây chưa chết chưa loại.
2. Cùng quỷ giao thông.
3. Súc sinh.
4. Người.
5. Các người thân thuộc.
6. Chị em (anh em).
7. Hai chúng tại gia trì ngũ
giới, bát giới.
8. Hai chúng xuất gia trì Đại
giới.
9. Cha mẹ.
10. Thánh nhân như phạm La hán
hoặc La hán Ni.
Đồng là phạm giới dâm Ba la di,
nhưng trước khinh sau trọng, như dâm thây chết là tội khinh, dâm Thánh nhân là
tội trọng, đây là ngay lúc thọ quả báo sẽ thấy rõ ràng.
1. Giới trộm cướp: Biết là vật
có chủ mà khởi tâm trộm cướp, trộm lấy đồ vật trị giá 5 tiền trở lên rời khỏi
chỗ cũ phạm tội Ba la di. Giới trộm cướp là một giới phức tạp hơn hết trong 4
giới Ba la di, trong các bộ luật đều có phân tích nhiều, đặc biệt ở trong Tăng
Ky Luật phân tích kỹ càng. Giới trộm cướp gọi chung là “Không cho mà lấy”,
nhưng có nhiều trường hợp bất đồng như: Tự tay mình lấy, đưa mắt ra hiệu cho
người khác lấy, bảo người lấy. Chủng loại, xứ sở, phương thức lấy đồ vật có đến
26 hạng mục: Mặt đất, trên mặt đất, nơi xe, nơi gánh, nơi trống không, ở chỗ
trên, nơi thôn làng, nơi A lan nhã, nơi ruộng, xứ sở, nơi thuyền, nơi nước, qua
đò, qua ải, không đóng thuế, lấy vật của người khác gửi, nước, nhành dương
(dùng đánh răng), trái cây, cỏ cây trong vườn, chúng sinh không có chân, chúng
sinh 2 chân, chúng sinh 4 chân, chúng sinh nhiều chân, của cải chung, đồng khế
ước, hầu hạ, giữ gìn, canh giữ đường trọng yếu. Ba la di của giới trộm cướp tuy
đồng phạm, không cho mà lấy 5 tiền trở lên, nếu do sự bất đồng của vật chủ và
vật thể thì nghiệp báo cũng riêng có khinh trọng bất đồng. Tỷ như trộm cướp của
nhà giàu 5 tiền, người giàu sẽ không đau khổ quá nhiều; nếu trộm của người
nghèo 5 tiền có thể làm cho người nghèo bị vô cùng khốn khổ. Tâm của người bị
trộm buông xả, hay tham lam keo kiết cũng khiến cho tội của người trộm có khinh
trọng bất đồng.
2. Giới giết người: Cố ý giết
người, biết rõ là người bị giết đã chết thì phạm tội Ba la di. Phương thức giết
người phân ra có: chính mình đích thân giết, bảo người giết, hiện tướng (tỷ như
gật đầu, ra dấu bằng tay hoặc bằng mắt) giết, khen ngợi giết, viết thư sai
giết, dùng công cụ giết (như đào hầm ám khí, bùa chú giết).
Tội ba la di giết người, nghiệp
báo cũng có khinh trọng. Do vì đẳng vị cao thấp của người bị giết, phẩm cấp
mạnh yếu của tâm người giết và trình độ của cách giết (thân, khẩu, ý nghiệp)
được sử dụng bất đồng, nghiệp báo cũng có khinh trọng bất đồng, tỷ như đồng là
giết người, tội giết người phổ thông nhẹ hơn giết người đã phát Bồ đề tâm. Nếu
như giết cha mẹ, Sư trưởng, cho tới Thánh nhân, tội nghiệp còn nặng hơn giết
người đã phát Bồ đề tâm. Như vì tâm tham mà giết người tội nhẹ hơn, do tâm sân
giết người tội nặng hơn, do tâm tà kiến giết người (cho rằng giết người được
phước, được sinh lên trời, hoặc cho rằng giết người không có quả báo) tội
nghiệp lại càng nặng hơn.
3. Giới đại vọng ngữ: Dùng tâm
dối gạt khiến người hiểu lời nói dối là chính mình được pháp hơn người như
thánh nhân, như thiền định; lời lẽ, ý tứ rõ ràng; người nghe tin rằng thật và
bị dối gạt, phạm tội Ba la di. Nếu dùng văn tự vọng ngữ, hoặc sai người khác
thay mình vọng ngữ, hoặc hiện ra tướng để vọng ngữ, chỉ cần đạt được mục đích
như thế, tức thành tội đại vọng ngữ.
Ba la di của đại vọng ngữ tội
nghiệp cũng có khinh trọng. Dối gạt người ân và bậc tôn trưởng, phạm tội
trọng.Dối gạt người bình thường, phạm tội khinh. Dối gạt vài người cho đến một
người thì tội khinh. Người bị gạt cực kỳ đau khổ thì tội khinh. Nếu vì danh dự
cung kính mà đại vọng ngữ, rồi lại cho rằng đây là công đức và thường làm không
dứt, phạm tội trọng. Vì lánh nạn khổ bức bách mà đại vọng ngữ thì tội khinh.
Đương nhiên, Ba la di là mất Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni giới. Chỗ này gọi khinh là so
sánh khinh ở trong quả báo của tội trọng, chứ không phải có nghĩa là ly khai
giới trọng nhập vào giới khinh.
Bốn điều kể trên là 4 pháp khí,
nếu phạm phá một điều nào trong 4 điều trên tức là bị bỏ ra ngoài biển lớn Phật
pháp, suốt đời không được làm Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni nửa. Song, mỗi giới cũng có
khai duyên:
1. Giới dâm: Nếu ngu không hay
biết gì hết, người khác ở trên thân mình hành dâm, nếu bị cưỡng hiếp hành dâm
mà không cảm thọ khoái lạc, nếu hoàn toàn không có ý dâm dục, nếu bị suy cuồng
tâm loạn, đau khổ ràng buộc, đều không kể là phạm.
2. Giới trộm cướp: Nếu tưởng là
vật cho mình là vật phấn tảo (ném bỏ), nếu tưởng là của người thân (thân thiết
không có phân biệt mình người), như thế không cho mà lấy đều không kể là phạm.
3. Giới sát: Nếu lúc ném dao,
gậy, ngói, đã lỡ trúng nhằm người khác chết; hoặc lúc xây cất phòng nhà lỡ làm
rớt cây, đá, gạch, ngói làm cho người ở dưới chết; nếu có lòng tốt xốc đỡ người
bệnh đi đứng ngồi nằm, người bệnh nhân đó mà chết; nếu không có tâm làm hại làm
cho người khác chết đều không kể là phạm.
4. Giới đại vọng ngữ: Nếu người
tăng thượng mạn (chính mình không có tâm dối gạt nhưng do sự hiểu lầm về thiền
định) tự cho mình thật chứng pháp Thánh nhân, nếu là nhân duyên nghiệp báo,
không nói là do tu mà đắc, hoặc nói đùa, hoặc nói trong chiêm bao, hoặc nói
lầm, đều không kể là có tội.
III.
MƯỜI BA PHÁP TĂNG TÀN
Mười ba pháp Tăng tàn:
1. Cố chọc âm xuất tinh.
2. Xúc chạm người nữ.
3. Nói lời thô tục với người nữ.
4. Ngợi khen mình đòi cúng
dường.
5. Làm mai mối cưới gả.
6. Không có thí chủ, tăng không
xử phân mà làm nhà quá lượng (quá chiều dài 12 gang tay, chiều rộng 7 gang tay
Phật).
7. Có thí chủ, tăng không xử
phân mà làm nhà.
8. Vu báng người không phạm là
phạm giới trọng một cách không căn cứ.
9. Lấy chút tội khác vu báng
người là phạm trọng giới không căn cứ.
10. Phá hòa hợp Tăng và còn
chống lại lời khuyên can của Tăng đoàn.
11. Lập bè đảng, giúp phá tăng
và chống lại lời khuyên can.
12. Làm nhơ nhà người (mang lễ
vật tặng biếu cho người cư sĩ) đến nỗi bị Tăng đoàn đuổi đi, rời chỗ này đi đến
chỗ khác, tâm còn không phục, phỉ báng Tăng đoàn, chống lại sự khuyên can của
Tăng đoàn.
13. Tánh xấu cự tuyệt lời dạy
bảo của Tăng đoàn và chống lại lời khuyên can của Tăng đoàn.
Trên thực tế, trong 13 pháp tăng
tàn, tại Phật giáo Trung Quốc ngày nay chỉ có giới chạm xúc người nữ, nói lời
thô tục với người nữ, và làm mai mối cưới gả là trọng yếu. Đến như cố chọc âm
xuất tinh là việc cá nhân, ngừời xụất gia phạm thủ dâm là điều không nên, nhưng
không đến nỗi nhân đây bị sự chê bai của người bên ngoài. Phương pháp cố chọc
âm xuất tinh tuy nhiều, nhưng không ai dám công khai làm như thế cho người khác
xem. Đương thời nếu không cố ý chọc âm, dù là xuất tinh, cũng không phạm giới.
Phàm phu khó khỏi xuất tinh, dầu cho tâm dục sinh khởi xuất tinh, nếu không
phải do có tâm làm cho xuất tinh cũng không phạm giới. Đến như người nữ chảy
nước trong âm đạo, tình hình cũng giống như vậy. Đến như tự khen mình có đức mà
đòi cúng dường dâm dục, tôi nghĩ là việc rất khó phát sinh vì đây là ý kiến quá
điên đảo, rất ít người dám mở miệng nói ra. Đến như làm phòng nhà, hiện nay
không bị sự hạn chế này nữa. Còn như vu báng phạm tội trọng cũng có thể xảy ra,
nhưng trong xã hội hiện nay, nếu không có nhân chứng và vật chứng xác thật thì
dễ gì làm cho người khác tin! Đến như phá Tăng và lập phe đảng phá Tăng, ở Phật
giáo Trung Quốc không có thực hành pháp yết ma thì không có chuyện đó xảy ra.
Đến như làm nhơ nhà người, người xuất gia đem lễ vật tặng biếu cho tín đồ, tại
Trung Quốc thời đại mạt pháp, đã là Trụ trì của của một đạo tràng thật khó
tuyệt đối không đi trên con đường này. Tuy phải coi trọng một điều giới này,
nhưng người Trụ trì của tự viện Trung Quốc nếu tặng biếu lễ vật cho người tục
thì ai sẽ đuổi họ đi chỗ khác? Đến như tánh xấu chẳng nhận lời của Tăng đoàn
can gián, ở trong hoàn cảnh không cử hành pháp yết ma, tự nhiên dùng cũng không
được. Thật ra, trong 13 pháp Tăng tàn, hai điều số 6 và 7 cần phải dùng pháp
yết ma cầu được Tăng chúng đồng ý xử phân. Bốn điều số 10,11,12,13 cần phải ở
trong Tăng chúng ba lần can gián, ba phen yết ma mới thành lập được. Trong hoàn
cảnh không cử hành pháp yết ma, 13 pháp Tăng tàn nhiều nhất chỉ có thể thực
hiện được 7 điều mà thôi.
Như thế, chúng ta chỉ giới thiệu
sơ lược ba điều giới: Chạm xúc người khác phái, nói lời thô tục với người nữ,
làm mai mối cưới gả như sau:
A. Giới xúc chạm người khác phái
Xúc chạm người nữ là giới của Tỳ
kheo, nhận sự xúc chạm của người nam là giới của Tỳ kheo Ni. Sự nguy hiểm của
việc xúc chạm người khác phái đặc biệt trọng đại, do vì sự cảm thọ của xúc chạm
khiến cho tình dục nổi dậy, có thể sinh ra phản ứng không tốt cho sinh lý. Theo
sự nghiên cứu, các bộ phận mẫn cảm hơn hết của thân thể của con người là: môi,
vú, nách, eo, âm hộ, bộ phận trì độn là: lưng, lông, tóc: bộ phận trì độn hơn
hết là móng, răng; ngoài ra như bắp vế, hông, bụng, cánh tay, gò má thuộc về bộ
phận mẫn cảm loại kế. Nếu như người nữ tình cảm yếu đuối, một khi bị người khác
phái vuốt ve các bộ phận mẫn cảm nhất, thường bị kích thích mất đi tất cả năng
lực phản kháng. Nhân vì phàm phu chưa có thể ly dục, đối với người khác phái
đều có một khao khát tình dục một cách bẩm sinh, một khi hai nhục thể tiếp xúc
nhau sẽ có một sự cảm thọ lạ. Hiển nhiên đây là thuộc tác dụng phân biệt của
tâm lý, người nữ cùng người nữ chạm xúc nhau thấy cũng bình thường, người nam
với người nam chạm xúc nhau thấy cũng bình thường. Nếu như lúc mắt không thấy,
hoặc lúc vô ý bị người khác phái xúc chạm mà cũng không biết là bị người khác
phái xúc chạm, cũng thấy bình thường. Nếu như tôi là người nam biết rõ đối
phương là người nữ ngày đêm tôi ái mộ, phản ứng tâm lý lúc xúc chạm sẽ đặc biệt
mãnh liệt cho đến chỉ chạm một chút áo cũng sinh ra vọng tưởng mộng mơ. Cũng
giống như thế, nếu tôi là người nữ gặp được một chàng đẹp trai của lòng tôi
luyến mộ, thì phản ứng tâm lý khi tiếp xúc chạm cũng sẽ đặc biệt mãnh liệt.
Người xuất gia cấm ngăn dâm dục,
mục đích của sự cấm ngăn dâm dục vì giải thoát sự ràng buộc do dâm dục mà phải
chịu sinh tử lâu dài này. Cấm ngăn dâm dục là công tác huấn luyện đoạn dục, ly
dục. Từ sự cấm chỉ dâm dục, dần dần xa được dục sự, tiến lên một bước dần dần
xa được dục niệm. Sau cùng có thể xa lìa cái lưới mê sinh tử do dâm dục cấu
thành. Ngoài ra, người xuất gia cùng với người khác phái xúc chạm, dẫu cho tâm
không có tà niệm cũng là việc dễ bị người bên ngoài chê bai.
Trước người giới nha phiến,
không nên cho người ấy nghe đến mùi nha phiến; trước người giới rượu, không nên
cho người ấy ngửi đến mùi rượu; trước một người giới cờ bạc, không nên cho
người ấy vào sòng bạc. Bằng không rất khó giới trừ. Cũng như vậy, một người
xuất gia đang giới dâm cũng không nên cho người ấy chạm xúc người khác phái
hoặc bị người khác phái chạm xúc. Bằng không, công phu giới dâm có thể nhân đây
bị sự khảo nghiệm mảnh liệt, người bị khảo nghiệm qua không nổi, có thể nhân sự
uy hiếp này mà đưa đến phá phạm giới dâm căn bản. Vì thế, hành vi nhục thể của
người xuất gia cùng người khác phái chạm xúc tuy chẳng phải là sự thật của dâm
dục, nhưng do sự phản ứng của sự chạm xúc rất có thể đưa đến sự thật của dâm
dục. Nguyên nhân người xuất gia không được xúc chạm người khác phái là như vậy.
Nhân vì người nữ tâm chí yếu đuối, thể lực bạc nhược, không dễ gì kháng cự được
sự uy hiếp và dụ dỗ của sức mạnh bên ngoài, cho nên đối với một giới xúc chạm
này chế định rất nghiêm khắc. Tỳ kheo chạm xúc người nữ, phạm Tăng tàn. Tỳ kheo
ni cùng người nam chạm xúc, phạm Ba la di. Đây không phải thiên vị Tỳ kheo,
khinh rẻ Tỳ kheo ni, mà là bảo hộ giới thể Tỳ kheo ni an toàn. Vì thế, ngăn cấm
rất nghiêm khắc. Nhưng bộ phận chạm xúc của Tỳ kheo và Tỳ kheo ni cũng có thêm
bớt: Tỳ kheo ni từ đầu gối trở lên, từ mắt trở xuống, từ cổ tay trở lên, để
trần nhận sự xúc chạm của người nam phạm Ba la di; vì từ đầu gối trở lên chính
là bao quát hết tất cả bộ phận mẫn cảm. Sự chỉ định một bộ phận này là do tôi
tham khảo các bổn luật mà tổ hợp thành. Nhân vì, Tứ Phần Luật là từ đầu gối trở lên, từ nách trở xuống, cổ tay trở
lên; Hữu Bộ Luật thì từ mắt trở xuống, từ đầu gối
trở lên. Thập Tụng Luật
nói: “Từ mí tóc trở
xuống, cổ tay trở lên, ở y phục nhận sự xúc chạm phạm Ba la di”. Tứ Phần Luật “Từ nách trở xuống không bao quát
được gò má và miệng”. Thập Tụng Luật: “Từ mí tóc trở xuống”, so sánh ra là
thích đáng hơn hết. Trong Thiện Kiến Luật quyển 7, đối với Tỳ kheo có quy định:
“Cảm thọ sự khoái lạc của xúc chạm giữa miệng với miệng, phạm Tăng già bà thi
sa”. Nếu chuẩn theo Tỳ kheo ni giới, hai miệng nam nữ hôn nhau, ít nhất là tội
(chưa toại) Thâu lan giá của Ba la di.
Thập Tụng Luật quyển 42, đối với
Tỳ kheo ni thọ nhận sự xúc chạm, nói có 4 hạng:
1. Từ mí tóc trở lên, cổ tay trở
xuống, đầu gối trở xuống, không có ý phục che, thọ nhận người nam chạm xúc,
phạm Thâu lan giá; có y phục thọ nhận người nam xúc chạm, có khoái lạc, phạm
Đột kiết la.
2. Mí tóc trở xuống, cổ tay trở
lên, đầu gối trở lên, cởi y phục thọ nhận chạm xúc, phạm Thâu lan giá.
3. Tỳ kheo ni có tâm dục nhiễm
cho người nam có tâm dục nhiễm vuốt ve, ôm, đè, xốc, kéo, đều phạm tội Ba la
di.
4. Mặt, cổ, ngực, hông, sống
lưng, bụng, rún, chỗ đại tiểu tiện, đùi vế cho đến đầu gối, cởi y phục thọ nhận
sự chạm xúc, phạm tội Ba la di; có y phục thọ nhận sự chạm xúc, phạm Thâu lan
giá.
Trong Tỳ kheo ni Hội Nghĩa nói:
“Theo Tăng Kỳ Luật: Nếu Tỳ kheo ni tâm nhiễm ô muốn nhìn người nam, phạm tội
trách tâm Đột kiết la. Nếu mắt thấy nghe tiếng, phạm đối thú Đột kiết la. Nếu
thân thể hướng vào nhau, phạm Thâu lan giá”.
Đối với Tỳ kheo, trong Tăng Kỳ
Luật quyển 28 nói: “Có tâm dục đi theo sau người nữ, mỗi bước đi phạm tội Việt
Tỳ ni. Chân đạp người nữ, phạm Thâu lan giá. Nổi giận đánh người nữ, phạm tội
Việt tỳ ni”.
Thiện Kiến Luật nói: “Tóc với tóc chạm nhau, móng với
móng chạm nhau, phạm Thâu lan giá; nếu giác biết lẫn nhau, phạm Tăng già bà thi
sa”.
Nhưng trong luật có chế, có
khai, chẳng phải một khi xúc chạm với người khác phái đều kẻ là phạm tội trọng,
tội tăng tàn. Biết rõ là người nữ, đem thân xúc chạm, chạm thân, thân động và
cảm thọ khoái lạc, Tỳ kheo phạm Tăng tàn; thân động mà không cảm thọ khoái lạc,
phạm tội Thâu lan giá. Dùng y phục chạm thân, đem thân chạm y phục, thân động,
thọ khoái lạc hay không thọ khoái lạc đều phạm Thâu lan giá. Nghi là người nữ
đem thân chạm thân, phạm Thâu lan giá; đem thân chạm y phục, phạm Đột kiết la.
Biết rõ là người nam thành niên
đối với mình có tâm nhiễm ô từ đầu gối trở lên, mắt trở xuống, cổ tay trở lên,
dùng thân chạm thân, Tỳ kheo Ni động thân cảm thọ khoái lạc, phạm Ba la di;
không cảm thọ khoái lạc, thân động, phạm Thâu lan giá. Đem thân chạm y phục,
dùng y phục chạm thân, ni đến xúc chạm vào người nam, phạm Thâu lan giá; người
nam đến xúc chạm ni, ni cảm thọ khoái lạc, phạm Thâu lan giá. Nghi là nam đem
thân chạm thân, phạm Thâu lan giá; đem thân chạm y, dùng y chạm thân, phạm Đột
kiết la.
Không vì tâm dâm dục trao đồ vật
cho nhau mà đụng chạm nhau không kể là phạm. Nếu lúc cởi trói cho nhau, đụng
chạm nhau cũng không phạm; đùa giỡn đụng chạm nhau cũng không kể là phạm. Luật
sư Linh Chi nói răng: “Đùa giỡn đụng chạm nhau trái oai nghi, phải kết tội Đột
kiết la”.
Trong Thập Tụng Luật quyển 3
nói: “Nếu tưởng là mẹ, tưởng là chị em, tưởng là con gái, đụng chạm vào thân
người nữ không phạm. Nếu cứu nguy nữ bị lửa đốt, nước cuốn, đao binh, hoặc té
từ chỗ cao xuống, nan ác trùng, ác quỷ thì không phạm; không có tâm nhiễm xúc
chạm, không phạm; người nữ bị nước cuốn, phải cứu, tuy tâm dâm khởi lên nhưng
nắm một chỗ không buông, đến bờ rồi không nên chạm xúc nữa, chạm xúc nữa, đắc
tội”. Trong Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Luật Bí sô Tỳ nại da quyển 5 nói: “Nếu Bí sô ni tự có tâm nhiễm
cùng người nam có tâm nhiễm từ mắt trở xuống, đầu gối trở lên có tâm cảm thọ,
thọ khoái lạc hai thân chạm xúc nhau nếu chạm xúc nhau cực độ, làm như thế Bí
sô ni này cũng đắc tội Ba la thi ca (Ba la di) không được cộng trụ”. Song lại
nói: “Nếu bí sô ni không có nhiễm tâm, người nam hoặc có nhiễm tâm hoặc không
nhiễm tâm, ni xúc chạm, phòng ngừa tâm thì không phạm. Nếu ni có bệnh, người
xoa thân, ni khởi tâm nhiễm đắc tội ác tác; không có tâm nhiễm, không phạm; và
bị bệnh khổ làm bức ngặt thì không phạm.
Thập Tụng Luật cùng Hữu Bộ Luật
đối với yêu cầu của giới chạm xúc rất rộng, Tát Bà Đa Bộ Luật Nhiếp quyển 3
nói: “Mẹ con, chị em có tâm cảm thọ khoái lạc xúc chạm vào thân của những người
ấy, cũng đắc tội thô (Thâu lan giá); nếu không biết hổ thẹn, đắc tội Tăng tàn”.
Tăng Kỳ Luật cũng nói: “Nếu
người nữ té xuống nước kêu cứu, tỳ kheo quán tưởng là đất vớt lên, không phạm”.
Lại nói: “Nếu nói biết cô khổ, nhưng cứ để mặc cho số mệnh của cô, cũng không
phạm tội”.
Thập Tụng Luật vì cứu người, tuy
có tâm dâm dục khởi, vẫn không kể là phạm. Tăng Kỳ Luật vì ngăn ngừa
phá giới dâm, tuy thấy chết mà không cứu vẫn được vô tội. Đây là chỗ thêm bớt
rất lớn. Nếu nói theo tinh thần Đại thừa, chúng ta nên nhận lấy quan điểm của Thập Tụng Luật và Hữu Bộ Luật. Nhưng nếu không cần yếu thì
vẫn phải ngăn ngừa nghiêm khắc. Nhà Nho chủ trương giữa nam nữ phải “thọ thọ
bất thân” (qua lại không thân) hiện nay đã phá sản, giữa người nam nữ xuất gia
có đưa đồ vật qua lại cũng chẳng được quá thân cận; nếu do đưa đồ vật qua lại
mà thân cận, do thân cận đi đến thân mật, từ thân mật sẽ sinh ra hậu quả đối
với người xuất gia không thể tưởng tượng! Tuy nhiên như thế, nếu gặp bệnh đau,
tại nạn Đức Phật cũng dạy các Tỳ kheo nam nữ phải cứu giúp lẫn nhau (Hữu Bộ Luật quyển 33).
Điều giới này dễ trì, da thịt
tiếp xúc nhau sinh ra cảm thọ khoái lạc, Tỳ kheo phạm Tăng tàn, Tỳ kheo ni phạm
Ba la di, chỉ cần có một tầng y phục vật dụng ngăn cách là không phạm tội này.
Nhưng ở Trung Quốc ngày nay rất khó nói, trường hợp lên xe, xuống xe, mọi người
chen lấn, người xuất gia ở trường hợp này khó tránh khỏi sự xúc chạm với người
khác phái. Vào mùa hạ, người nam mặc áo sơ sài, người nữ phần nhiều mặc áo hở
vai, hở lưng, người xuất gia cũng khó tránh khỏi sự xúc chạm với da thịt. Trong
hoàn cảnh này, nếu muốn giữ gìn nội tâm tuyệt đối bình tĩnh cũng không phải là
điều thanh niên nam nữ xuất gia của chúng ta phổ thông làm được! Người xuất gia
Trung Quốc (ở nước Thái Lan người nữ tránh, nhường Tỳ kheo), chỉ có thể biểu
thị sự không vừa ý, trừ phi mỗi người tự đề cao cảnh giác không nên cố ý đi tìm
sự xúc chạm với người khác phái ra, cũng không có biện pháp nào tốt hơn.
B. Giới nói lời thô tục
Bây giờ nói về giới nói về thô
tục với người nữ. Điều này rất ít có cơ hội phạm, người xuất gia có tâm tự
trọng, tâm hổ thẹn, sẽ không mở miệng thốt ra lời thô tục. Đồng thời, Tỳ kheo
xúc chạm người nữ không hạn cuộc là sống chết, già trẻ, hoặc ngủ hoặc thức, một
điều giới này phải là một người nữ hiểu biết được nghĩa vị của lời nói mà nói,
mới thành tội Tăng tàn; và chủ yếu là nơi hai đường ở phần dưới thân thể mới
phạm tội này. Nếu nơi các bộ phận khác của thân thể, chỉ phạm Thâu lan giá.
Nhưng trong Tăng Kỳ Luật quyển 5 nói: “Nếu dùng các phương thức: Khen, chê,
nói, hỏi, cầu thỉnh, nhìn, mắng, nói thẳng để nói về dâm sự; dùng lời khen chê
để nói về 14 chỗ là: hai môi,hai nách, hai vú, hai bên hông, bụng, rốn, hai
đùi, hai đường đại tiểu tiện, đều phạm tội Tăng tàn. Nhưng phương thức nói lời
thô tục theo tôi thấy, người có tri thức cao phần nhiều dùng cách gián tiếp và
cách nói nghĩa bóng, người tri thức thấp mới dùng cách nói trực tiếp và thô
tục. Bất luận là dùng phương pháp nào nói, chỉ cần đối phương là người nữ và
hiểu được nghĩa của lời nói, thì Tỳ kheo ấy phạm tội Tăng tàn. Hiểu nghĩa mà
không hiểu ý vị thì đắc tội Đột kiết la. Tỳ kheo ni nói lời thô tục phạm Thâu
lan giá. Nếu dùng văn tự viết ra, hoặc sai người thay thế nói, hoặc dùng văn tự
viết ra, hoặc sai người thay thế nói, hoặc dùng tư thế và tay ra dấu nói, đạt
thành dồng một mục đích, phạm tội Tăng tàn.
Thật ra điều giới này dễ trì,
song phải cần thực hiện đến chỗ đã không nói với người nữ, cũng không nói với
người nam; không nói với người khác phái, cũng không nói với người đồng phái.
Nếu nói lời thô tục với người đồng phái, mỗi lời phạm một tội Đột kiết la, cho
đến phải thực hiện đến điều được luật quy định là Tỳ kheo không được hỏi việc
riêng kín của nữ ni.
Giới này cũng có khai duyên: Nếu
vì người nữ nó bất định quán, nói đến 9 lỗ của thân thể con người thường chảy
đồ bất tịnh thì không phạm. Hoặc lúc thuyết giới, nói đến hai đường đại tiểu
tiện, không phạm. Hoặc người nữ không phải vì tâm dâm hỏi mà nói, không phạm,
hoặc đùa giỡn nói, một mình nói, mau mau nói, trong chiêm bao nói, muốn nói lời
này lầm qua lời kia, đều không phạm.
Một giới này phải đủ 7 điều kiện
mới phạm tội Tăng tàn, đó là đối với người nữ, tưởng là nữ, có tâm nhiễm, lời
thô tục, tưởng là lời thô tục (cho răng đây là lời thô tục), ngôn ngữ rõ ràng
phân minh, người nghe hiểu rõ. Vì thế tôi cho rằng giới này dễ trì, nếu không
trì được tốt giới này, bị chê bai cũng là một vấn đề nghiêm trọng, vì thế ở đây
phải giới thiệu.
C. Giới làm mai mối cưới gả
Giới làm mai mối cưới gả là một
giới Tăng tàn hết sức phiền phức trong 13 pháp Tăng tàn này. Trong giới Tăng
tàn của Tăng Kỳ Luật có một thiên nói về giới này rất dài. Ở đây nói người làm
mai mối là chỉ cho người qua lại hai bên làm mai mối cưới gả, đem ý người nam
nói với người nữ, đem ý người nữ nói với người nam, nếu thành vợ chồng hoặc tư
thông với nhau, cho đến trong khoảng chốc lát thì phạm Tăng già bà thi sa. Giới
này phải đủ 6 điều kiện mới kể là phạm tội Tăng tàn: Là nam nữ của loài người,
cho là nam nữ của loài người, làm mai mối cưới gả, cho là làm mai mối cưới gả,
lời nói rõ ràng phân minh, tiếp nhận lời của nam nữ cả hai bên qua lại truyền
đạt. Nếu thiếu một bên không phạm tội Tăng tàn, chỉ phạm tội Thâu lan giá. Một
giới này Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đồng phạm tội Tăng tàn.
Trong Tứ Phần Luật Sớ nói: “ Lễ
cưới gả hòa hợp sinh tử, thật trái với xuất ly, người xuất gia làm mai mối là
trái với pháp thức; lại làm bận rộn, chướng ngại sự tu hành, bị sự chê bai,
không khỏi thế gian trách móc, vì thế Phật chế giới”. Thời Phật tại thế có một
vị Tỳ kheo tên Ca La, đối với việc mai mối cưới gả đặc biệt có phương pháp khéo
léo, hễ ai được Ngài làm mai mối đều được thành công. Nhưng các nam nữ sau khi
kết hôn, nếu cảm tình của vợ chồng đầm ấm thì nói tốt cho Tỳ kheo Ca La. Nếu vợ
chồng bất hòa, gia đình không thuận, chồng chịu sự vất vả, vợ con bị ngược đãi,
cả nhà tức giận mắng Tỳ kheo Ca La. Nhân đây Ngài bị người đời chê bai. Vì thế
Đức Phật chế giới đệ tử xuất gia không được vì người tục làm mai mối cưới gả,
nếu làm mai mối phạm tội Tăng tàn. Đồng thời, nếu vì cư sĩ mang thư tín, phải
xem nội dung rồi mới mang đi để phòng trong thư có ý của nam nữ qua lại thông
tin về việc mai mối, cũng không được làm tay sai qua lại cho cư sĩ, bằng không
cũng phạm Đột kiết la.
Nhưng giới này cũng có khai
duyên: Nếu nam nữ trước đã kết hôn sau lại chia lìa, khuyên họ nên hòa hợp, thì
không phạm. Nếu vì cha mẹ hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di dốc lòng tin Phật pháp, hoặc
người bệnh, hoặc người bị giam trong ngục, xem nội dung của thư tín, biết không
quan hệ đến việc mai mối cưới gả, vì họ mang thư đi không phạm. Nếu vì Phật,
Pháp, Tăng, tháp, hoặc vì Tỳ kheo (Tỳ kheo ni) bệnh, xem nội dung thư tín xong,
mang thư đi dùm cho họ không phạm.
Về một giới này, thời gần đây
đến nay cần phải nghiên cứu, nhân vì tôn giáo không thể vượt ra ngoài sinh hoạt
hằng ngày của quần chúng, bằng không, thì có thể bị gạt bỏ ra ngoài quần chúng.
Đến trong sinh hoạt hằng ngày của quần chúng, hai điều được xem trọng là việc
lớn hôn nhân và việc lớn sinh tử. Hình thái của Phật giáo luôn luôn thiên trọng
vấn đề sinh tử, cho đến chỉ thiên về vấn đề độ người chết, đến nỗi bị người gần
đây là La Gia Luân chê là tôn giáo của “Nhân tử quan”. Nghiên cứu bản chất của
Phật giáo, quyết chẳng phải hạn cuộc ở việc độ người chết. Đức Phật ứng hóa ở
nhân gian là vì cứu độ tất cả chúng sinh. Pháp môn độ người chết chỉ là phần
phụ thuộc, chứ không phải chủ yếu. Phật giáo Trung Quốc đời sau lại làm đảo lộn
gốc ngọn! Vì thế, mấy mươi năm gần đây cho đến nay, có một số Phật giáo đồ đề
xướng cử hành nghi thức Phật hóa kết hôn. Từ trên yêu cầu hiện thực mà nói, đây
là gặp được phong trào của sự đề xướng. Trên nguyên tắc mà nói, Phật hóa kết
hôn không trái với tinh thần Phật giáo, thậm chí còn hợp với tông chỉ của Phật
giáo Đại thừa, từ trên cảm quan tôi cũng tán thành thanh niên nam nữ Phật giáo
đồ, phải nên cử hành Phật hóa kết hôn. Phật hóa kết hôn là cơ sở của Phật hóa
gia đình, cũng là mở đầu của sự Phật hóa gia đình. Có kiện tòan Phật hóa gia
đình mới có sự Phật hóa con cái ưu tú. Có Phật hóa con cái ưu tú mới có thanh
niên Phật giáo ưu tú. Nhân đó, Phật giáo mới có được sự tôn sùng và quy hướng
của xã hội, mới đem được nghĩa lý và tinh thần của Phật giáo phổ biến đến mọi
nơi trong xã hội. Đây cũng là tông chỉ của Phật giáo Đại thừa.
Nhưng nghi thức Phật giáo kết
hôn cũng không phải không có người phản đối, lý do phản đối là vì điều này
không hợp với điều kiện Phật chế, còn có tội là làm trái với điều Phật chế nữa,
do vì điều thứ 5 của 13 pháp Tăng tàn là giới làm mai mối cưới gả, cho rằng tất
cả có quan hệ đến dâm sự giữa nam nữ, người xuất gia đều không được tham dự.
Trong sự Phật hóa hôn lễ ngày nay lại lấy Tỳ kheo làm người chứng hôn, vì thế
bị kết tội là hành vi trái với Phật chế.
Điều này đúng lắm, vì trong Phật
điển chúng ta không tìm được căn cư cho phép Tỳ kheo làm người chứng hôn và
cũng không tìm được cái tục lệ Phật hóa kết hôn.
Nhưng chúng ta phải nghiên cứu
Tỳ kheo làm người chứng hôn có kể là làm mai mối hay không? Nếu nói theo nguyên
tắc của Luật Tiểu thừa, Tỳ kheo lấy xuất ly sinh tử làm động cơ chủ yếu của sự
giáo hóa. Hôn nhân là môi giới tăng trưởng sinh tử cũng là môi giới đưa đến dâm
hạnh, vì thế cũng nên xa lìa, trường hợp này cũng không được tham dự thành
người chứng minh hôn nhân.
Tỳ kheo làm người chứng hôn có
phạm giới hay không? Nếu muốn tìm ra điều văn căn cứ của sư phạm giới thì cũng
không tìm được, trong Luật vốn không có quy định điều nay. Vì người chứng hôn
là chỉ chứng minh sự kết hôn song phương của nam nữ thành vợ chồng, trừ phi
người chứng hôn kiêm nhiệm người giới thiệu, mới cấu thành tội Tăng tàn của
người làm mai mối, hai bên về sau dù kết hôn, ty kheo cũng không phạm tội làm
mai mối.
Trong luật chỉ ghi một trường
hợp về vấn đề quan hệ với Tỳ kheo có thể tham dự vào sự kết hợp vợ chồng: “Nếu
nam nữ trước đã kết hôn với nhau, sau ly biệt, nên khuyên họ hòa hợp trở lại.
Điều này không phải cho phép Tỳ kheo và Tỳ kheo ni làm người chứng hôn, mà là
cho phép Tỳ kheo, Tỳ kheo ni làm cho nam nư ly biệt hòa hợp trở lại như thuở
ban đầu khiến cho gia đình của họ không vì sự gây gổ đến nỗi tan nát. Việc làm
người chứng hôn cũng không thể viện dẫn một điều quy định này làm căn cứ.
Nhưng tôi tin rằng nếu cân nhắc
khinh trọng theo Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới, làm người chứng hôn tuy không phạm
tội Tăng tàn, nhưng ít nhất cũng phạm tội Đột kiết la. Nếu cân nhấc theo Đại
thừa Bồ tát hạnh, làm người chứng hôn chỉ cần mục đích là thiện. Dẫu cho làm
người chứng hôn là có tội, nhưng nếu tông chỉ của sự chứng hôn này là đạt thành
mục đích Phật hóa xã hội tiến đến độ khắp chúng sinh thì vì độ chúng sinh mà
chính mình tạo tội đọa xuống địa ngục, há chẳng phải là tinh thần của đạo Bồ
tát sao! Vì vấn đề là Tỳ kheo dẫu không vì người tục chứng hôn, nam nữ muốn kết
hôn họ vẫn cứ kết hôn.
Nhân đây lối nhìn của tôi như
vậy:
1. Nếu người xuất gia vì gấp cầu
giải thoát sinh tử thì không nên làm người chứng hôn.
2. Nếu người xuất gia vì
thật tâm thực hành đạo Bồ tát thì không ngại làm người chứng hôn.
3. Nếu người xuất gia vì
đã sợ tội ác của sinh tử lại nguyện Phật hóa nhân gian thì nên có một biện pháp
chiết trung: Trong Phật hóa hôn lễ, mời một người tục làm người chứng minh trước
khi hôn lễ tiến hành, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni vì tân lang tân nương thuyết pháp thọ
tam quy y và làm thầy quy y nữa, quy y Tam bảo nhiều lần càng tốt.
IV.
HAI PHÁP BẤT ĐỊNH
Hai pháp bất định là hai điều
của Tỳ kheo giới không thể phán đoán nhất định. Điều thứ nhất là Tỳ kheo đơn
độc cùng một người nữ ngồi tại chỗ khuất có ngăn che có thể làm việc dâm dục và
nói những lời Phật pháp không cho nói. Điều thứ hai là Tỳ kheo đơn độc cùng một
người nữ ngồi tại chỗ trống trải không thể làm việc dâm dục và nói những lời
Phật pháp không cho nói. Hai trường hợp này nếu bị một nữ cư sĩ tuyệt đối đáng
tin (chứng Sơ quả trở lên) phát hiện, người ấy nói là phạm tội gì thì kể là
phạm tội ấy. Tỳ kheo phạm tội cũng nên thật tình thừa nhận tự mình phạm tội gì
nói phạm tội đó.
Trong điều thứ nhất, vì ở tại
chỗ khuất có ngăn che có thể làm việc dâm dục, vì thế có thể phạm tội hành dâm
Ba la di, có thể phạm tội Ba dật đề một mình ngồi với người nữ, vì thế gọi là
pháp Bất định. Trong điều thứ hai, nhân vì ở chỗ trống trải không có thể làm
việc dâm dục, vì thế có thể phạm một tội nào trong 2 tội xúc chạm của Tăng tàn
và một mình ngồi cùng với người nữ của Ba dật đề, vì thế gọi là pháp Bất định.
Tóm lại, người xuất gia phải nên
đặc bịệt nhận chân về giới hạn giữa nam nữ, người xuất gia đơn độc ở một chỗ
với người khác phái dù không phạm giới cũng bị chê bai.. Giống như quả phụ
thanh xuân và xử nử lớn tuổi có trinh tiết hay không thường là đối tượng của
người nhiều chuyện, Tăng Ni có thanh khiết hay không cũng rất bị sự chú mục của
người khác. Vì thế, trong luật quy định Tỳ kheo một mình ngồi với người nữ cách
nhau ít nhất phải hai tầm (18 thước Tàu ), nếu có bạn thì không phạm.
Trọng tâm của giới xuất gia là
giới dâm, những giới trọng yếu tôi giới thiệu cũng chú trọng vào giới dâm.
Trong 13 pháp tăng tàn, có 5 điều quan hệ đến giới dâm, phân làm 3 lọai:
1. Chọc âm là tự mình đối với
mình phạm
2. Xúc chạm, nói lời thô tục, tự
khen mình, là tự mình đối với người khác mà phạm.
3. Làm mai mối là tự mình trợ
giúp người khác mà phạm.
Năm thứ hành vi của giới dâm
Tăng tàn tuy chưa cấu thành Ba la di của tự hành dâm dục, nhưng lại có sức mạnh
đưa đến việc dâm dục. Vì thế, cả hai pháp bất định đều là giới vòng ngoài của
giới dâm căn bản. Tác dụng của những giới dâm vòng ngoài là bảo vệ an toàn cho
giới dâm căn bản. Giới dâm vòng ngoài được hình thành gồm có 3 lớp phòng tuyến
bảo vệ giới dâm căn bản: Lớp thứ nhất là Đột kíết la, lớp thứ hai là Ba dật đề,
lớp thứ ba là Tăng tàn. Trọng điểm của chương này giới thiệu là nghiêng về giới
Tăng tàn của phòng tuyến thứ ba.
Như đột phá phòng tuyến thứ ba
thì công kích vào đại bản doanh Ba la di.Đương nhiên chỉ cần người xuất gia có
đạo tâm hoặc tâm cảnh giác, người ấy rất khó phá ba lớp phòng tuyến. Nhưng nếu
người không có chút lòng hổ thẹn công kích thẳng vào đại bản doanh của Ba la
di, cũng là việc chỉ trong khoảnh khắc mà thôi!