Thật vậy, hiểu được trí tuệ
và đức hạnh của Phật thì giữa chúng ta
và Ngài có sự gắn
bó thân thương, gần gũi hơn; từ đó thế
giới
Ta-bà mà chúng ta đang ở và thế giới
Phật cũng trở nên gần nhau, không còn bị ngăn cách xa xôi. Và lần lần
chúng ta sẽ hiểu được việc làm siêu việt của Phật, hiểu được thế giới
Phật, để
thâm nhập
được thế giới Phật thì sẽ làm được những việc ngoài sức nghĩ tưởng của
con người. Các Hòa thượng lớn đều đạt
được thành quả như vậy, mặc dù các ngài sống giản dị, nhưng việc làm nào
của các ngài cũng thành tựu tốt đẹp
mà người thường
không làm được; đó mới thật là Phật sự.
Vì vậy, thâm nhập Phật huệ là thấy
Phật tu hành, phát tâm Bồ-đề và thành Phật. Chúng ta suy nghĩ và làm theo Phật, nên ở ngoài
tham vọng tính toán; nhờ vậy, Phật mới bổ xứ cho ta làm và Ngài bảo Hộ pháp
Long thiên trợ lực cho ta, dẫn đến kết quả vượt ngoài khả năng của ta.
Một vị Tổ sư có độ cảm sâu sắc về sự thọ mạng bất tử của Phật, đã sáng tác bài kệ tắm Phật, nhưng ngài ẩn
danh. Đó là bài thơ Đường có ba đoạn, mỗi đoạn có bốn câu. Bài thơ này
bằng chữ Hán, nên Phật tử đọc
mà ít người hiểu được. Tôi dịch bài này ra tiếng Việt như sau, để mọi người hiểu
được tôn ý của Đức
Như Lai, theo đó tu hành mới đạt
được kết quả không thể nghĩ bàn.
HT.Thích Trí Quảng thực hiện nghi thức tắm Phật tại Việt Nam Quốc Tự sáng nay, 3-5
Con nay tắm gội Đức Như Lai
Trí tuệ quang minh tọa bảo đài
Ngũ trược chúng sanh đều
rửa sạch
Không còn
sanh tử ở trần ai.
Phật cũng không sanh Ca Tỳ La
Cũng không nhập diệt Câu Thi Na
Không sanh không diệt là chơn Phật
Xứng danh
giáo chủ cõi Ta-bà.
Hôm nay mùng tám tháng Vê-Sa
Xuất hiện trên
đời Sĩ Đạt Ta
Chín rồng
phun nước từ Thiên
ngoại
Bảy
bước chân đi bảy đóa hoa.
ÁN MÂU NI MÂU NI TAM MÂU NI TÁT
PHẠ HẠ
“Con nay tắm
gội Đức Như Lai”.
Chúng ta lấy nước nào tắm Như Lai. Một số người cho rằng
không được dùng nước giếng để tắm Phật, phải lấy nước tinh khiết, vì thế chỉ có nước mưa từ trên trời
rơi xuống mới tinh khiết.
Theo các vị Tổ dạy, nước tắm Phật phải lấy từ tánh thiên chơn,
hay từ vô thức, vô tâm của chúng ta,
nghĩa là cùng tột của sự giải thoát. Vì từ tánh thiên chơn mới sanh ra được
nước Bát công đức.
Nước Bát công đức có một công
năng kỳ diệu là có thể tẩy sạch được thân nghiệp chướng ô uế, rửa sạch tâm phiền não trần lao của chúng ta.
Để tắm Phật, chúng ta mượn
nước trong sạch, nhưng muốn linh nghiệm phải kết hợp được lòng thành,
tánh thiên chơn của chúng ta. Nếu không có lòng thành, không
phát xuất từ
tánh thiên chơn, thì không hiệu
nghiệm. Công đức thủy này do chúng ta tu hành đúng Chánh pháp mà
có.
Vì thế, phải mượn nước sạch cộng với tâm trong sạch và công đức của chúng ta. Kết hợp ba yếu tố này lại mới thành
pháp. Chính vì lý do không đơn giản ấy, nên hình thức tắm Phật giống nhau, nhưng có nơi đạt được sự linh nghiệm,
có nơi không.
Thực tế chúng ta tham dự lễ tắm Phật, có cảm
nhận rằng
người chủ lễ trang nghiêm được tâm thanh tịnh, trong sáng, đức hạnh vẹn
toàn, nên đã biến nước mưa thành nước Bát công
đức. Nước công đức này rải trúng ai thì người đó được tâm mát mẻ. Nói cách khác, nhận thấy đức hạnh của
chủ lễ, chúng ta sanh tâm kính trọng, an vui, giải thoát.
Có thể nói trên bước đường
tu, chúng ta thường mượn cảnh để
biểu thị tâm, vì tâm không có cảnh trở thành vô nghĩa, mà cảnh không
chuyên chở được tâm thì cũng không có giá trị gì. Hiểu rõ
như
vậy, khi làm lễ tắm Phật, chúng ta
chuẩn bị
tư thế đạt đến
tánh thiên chơn, với tất cả
lòng thành, với tất cả niềm tin, mới có kết quả tốt. Cùng cầu nguyện, mà
người có kết quả tốt, người không được gì và cùng tổ chức đạo tràng
giống nhau, nhưng có đạo tràng thanh tịnh, đạo tràng không thanh tịnh là
như vậy.
Tâm thành
cùng với niềm tin của chúng ta hòa quyện với đức hạnh của vị
chủ trì lễ, tất cả dồn lực
vào nước tắm tượng Phật, biến tượng trở thành linh thiêng.
Tượng vật chất không linh, nhưng kết hợp được niềm tin
và lòng thành của con người thì cảnh này trở thành kỳ diệu, tượng này
thành trang nghiêm thanh tịnh, khiến chúng ta hình dung bức tượng trong
thau nước là Đức
Như Lai đứng trên tòa
sen và chúng ta tắm Đức Như Lai này.
Bấy giờ, tượng Phật chính là vật tiêu biểu cho trí huệ quang minh, “Trí huệ quang
minh tọa bảo
đài” và có công năng “Ngũ trược chúng sanh đều rửa sạch. Không còn sanh tử ở trần ai”.
Chúng sanh
có năm thứ trược, hay năm điều ô uế là thế giới Ta-bà kết hợp những người có năm
thứ này. Một là kiến giải không đồng, thấy khác nhau nên tranh giành, sát hại nhau, là chúng sanh. Ta-bà
hiện ra vì thấy khác, chấp khác, gọi là “kiến trược”.
“Kiếp trược”, kiếp là một thời kỳ. Ở thời Chánh pháp, công lý được phổ biến, nhưng kiếp
trược thì công lý không được công nhận, mà sức mạnh làm chủ, nên nạn bè
phái, tranh chấp hoành hành.
“Phiền não trược”, “chúng sanh trược” thì tất cả đều khổ
đau vì chống đối nhau, hại nhau và rơi vào cùng tột khổ đau, không bằng
lòng cả chính mình, dẫn đến cuộc sống
không còn lối thoát, vì phiền não bao vây kín mít là “mạng trược”.
Nhưng
nhờ làm lễ tắm Phật ngự bảo đài, chỉ nghĩ về Phật, không nghĩ đến chúng
sanh, nên tự nhiên chúng ta dẹp được phiền não và xa lìa trần cấu, thì:
“Không còn
sanh tử ở trần ai”.
Nghĩ đến Phật, gắn tâm mình nối liền với tâm Phật một
cách mật thiết, phiền não trần lao biến mất. Nếu chúng ta trụ mãi tâm thuần tịnh này, dĩ nhiên
chúng ta dễ dàng thành Phật một cách nhanh chóng. Nhưng thực tế hiếm có người giữ
được niệm trong sạch này một cách
liên tục, chỉ nghĩ đến Phật trong một khoảnh khắc, một niệm tâm
thôi, nên chỉ
được thanh tịnh trong giây phút ngắn
ngủi ấy, rồi lại trở về với tâm niệm điên đảo của chúng sanh.
Phật không
còn sanh tử; chúng ta thì trái lại, ở trong sanh tử. Đa số
người đã hiểu như vậy là không đúng. Phật không sanh tử, chúng ta còn sanh tử; như thế, giữa Phật và chúng ta cách biệt. Tu Pháp
hoa không hiểu
như vậy.
Vì thế, trong đoạn hai của bài kệ tắm Phật có nói rõ ý này tương ưng với phẩm Như Lai thọ
lượng thứ 16 của kinh Pháp hoa.
“Phật cũng không sanh Ca Tỳ La
Cũng không nhập diệt Câu Thi Na
Không sanh không diệt là chơn Phật
Xứng danh
giáo chủ cõi Ta-bà”.
Theo lịch sử
ghi nhận, Đức Phật sanh ở Ca Tỳ La và nhập diệt ở Câu Thi Na; nhưng
nay lại nói Phật không sanh ở Ca Tỳ La
và không nhập diệt ở
Câu Thi Na. Đây chính là cốt
lõi của kinh Pháp hoa, phẩm Như Lai thọ
lượng, theo đó Phật không sanh diệt
là chơn Phật. Nếu Phật
có sanh diệt, là Phật chết rồi thì chẳng lẽ không còn Phật hay sao?
Chơn
Phật không sanh diệt, nhưng chúng ta
bị vô minh, vọng kiến ngăn che, nên mới thấy Phật có sanh diệt, nghĩa là
thấy
Ngài sanh ra trên cuộc đời và Ngài không còn sống nữa. Nếu chỉ thấy như
vậy là cái thấy biết đơn giản, không đúng, là cái thấy ảo giác theo cuộc
đời,
nên Đức Phật thường nói cuộc đời
này là ảo mộng, không thật. Nghĩa là cuộc đời thay đổi không cùng, tất
cả mọi người
làm đủ thứ rồi biến mất, mà kinh cũng
thường diễn tả là mộng huyễn bào ảnh.
Chính vì lý do đó, Phật
dạy rằng
người tu Pháp hoa không phải là người ở trong cuộc đời thấy cuộc đời (Bất
như tam giới kiến ư tam giới). Còn thấy như người trong cuộc đời là mộng tưởng
điên đảo, thì hay giận, buồn, lo, sợ.
Vì thế, người còn giận là còn sống với vọng tưởng điên
đảo, tự biết không phải là hành giả Pháp hoa. Người hay sợ, nhất là sợ
chết, nhưng thân này tất yếu phải chịu sự chi phối của sanh diệt,
có sanh phải có chết, không thể khác. Chết là việc quan trọng nhất của
con người, mà chúng ta không sợ, thì những việc khác
có gì mà phải sợ.
Còn nói đến lo thì đa số
người lo nghèo, đói, khổ…; đó là việc không
đáng lo. Vì như đã nói tất cả mọi việc trên cuộc đời này là mộng ảo
phù du, người giàu có
quyền thế đã có đủ thứ mà họ
có tồn tại mãi đâu. Việc đáng lo nhất là lo ra khỏi thế giới sanh tử luân hồi, để
trở về cội nguồn của chúng ta là thế giới Phật. Ở thế giới Phật mới là chánh, ở đây là phụ.
Việc của
chúng ta là nhắm đến cái gốc không còn sanh tử. Vì thế, chúng
ta sợ nhất là sợ kẹt trong sanh tử, trong vô minh. Vì chúng ta nhìn sự vật không chính xác,
nên nghĩ tưởng đủ thứ, không bao giờ đúng, mới buồn phiền,
khổ đau, thất vọng, nghĩa là sống với thế giới sanh tử.
“Hôm nay mùng tám tháng Vê Sa
Xuất hiện trên đời Sĩ Đạt Ta
Chín rồng
phun nước từ Thiên
ngoại
Bảy bước chân đi bảy đóa
hoa”.
Vì chúng ta sống
trong cuộc đời ảo mộng, nên Phật cũng phải hiện thân vào
thế giới
này để cứu độ chúng ta. Nếu
Phật không xuất hiện trên cuộc đời, tất cả mọi người làm sao biết Phật là gì.
Phật không
sanh diệt là Phật chân thật, nhưng không ai thấy, không ai biết; cho nên nhờ Phật mang thân người trên cuộc đời mà chúng
ta hình dung ra Phật.
Phật xuất hiện
với
tư cách của con người toàn thiện, không khổ đau. Dù Ngài là
con người mang tên Sĩ Đạt
Ta, nhưng cuộc sống của
Ngài thể hiện rõ nét tất cả những gì đáng quý nhất.
Trong con người Phật, từ cấu trúc cơ thể khỏe mạnh, thông minh, tướng
hảo trọn lành, cho đến sự hiểu biết tuyệt đỉnh, tâm lượng đại
từ bi, vị tha vô cùng, việc làm lợi ích vô tận cho tất cả chúng sanh,
v.v...
Nhờ sanh thân Phật hiện hữu mà chúng ta nhận ra được Báo thân Phật kết hợp toàn những điều quý báu như
vừa nói. Vì thế, chúng ta kính trọng
Phật là kính trí tuệ
và đức hạnh của Ngài.
Phật là biểu tượng của sự hiểu biết chính xác cao tột để
chúng ta nương theo, mới nhận ra được Phật chân thật vĩnh hằng. Trí Giả đại
sư diễn tả ý này là “Vị liên cố hoa”,
nghĩa là Phật thật
ví như gương sen bên trong, Phật
hiện thân trên cuộc đời ví như hoa sen bên ngoài. Hoa sen từ bùn sanh ra, tỏa hương thơm tinh
khiết mà các loài hoa khác không có được.
Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời tiêu biểu cho sự trong
sạch hoàn toàn như hoa sen mà không một bậc Thánh nhân nào có thể sánh
bằng và Đức Phật tinh khiết như gương sen nhờ cốt lõi tâm trọn lành của
Phật thật. Từ Phật
gốc toàn thiện, toàn mỹ,
toàn bích như vậy mới thể hiện
lời nói và việc làm thánh thiện của Phật bằng xương thịt hiện hữu trên
thế gian. Nhờ tâm Phật đặt vào thân Thái tử Sĩ Đạt Ta, nên đã biến đổi
thân thái
tử thành thân Phật,
nhưng người ta cứ tưởng lầm thái tử là Phật.
Thái tử Sĩ Đạt Ta, hay Phật Thích Ca có xuất hiện trên
cuộc đời và có từ giã cõi đời, nhưng nhờ tâm Phật ẩn chứa bên trong, nên
Phật thật không chết,
mà tồn tại vĩnh hằng.
Trong kinh Pháp hoa, phẩm Phân biệt công đức thứ
17, Đức Phật bảo Di Lặc Bồ-tát rằng nếu có người nào sanh một niệm tín
giải thọ mạng dài
lâu của Đức Như lai thì sẽ được công đức nhiều hơn công đức của người bố
thí, trì giới, nhẫn nhục trong tám mươi muôn na-do-tha kiếp. Nếu hiểu ý
nghĩa thọ lượng Như Lai thì có thể được phát sanh Phật huệ Nhứt thiết
chủng trí, lại có thể thấy Thích Ca Như Lai ở Kỳ Xà Quật thuyết pháp
giáo hóa chúng Đại Bồ-tát và thấy thế giới Thật báo của Lô Xá
Na.
Nghĩa
là người hiểu được Phật thật đi vào sanh thân của Sĩ Đạt Ta và Phật
thật đó ra khỏi Sĩ Đạt Ta, là đã nhận chân được Phật không sanh diệt. Và
chúng ta nương theo Phật không sanh diệt để tu, theo
công đức và trí tuệ của Phật thật đó để phát huy hiểu biết và đạo hạnh
của mình; nói cách khác, nhìn sanh diệt mà hướng về Vô sanh, về
Niết-bàn.
Người có trí hiểu được Phật thật hiện vô Sĩ Đạt Ta và
khi thân Sĩ Đạt Ta già rồi, thì Phật thật ra đi. Thân người ví cho nhà
ngũ uẩn, nhưng nhà này hư
mục, chúng ta bỏ đi và đến nhà khác ở.
Người khôn chỉ ở tạm nhà ngũ uẩn, họ làm việc tích lũy
được một số tiền lớn, thì nhà mục, họ mua được nhà khác sang trọng hơn
để ở. Cũng vậy, linh hồn chúng ta trong
sáng và có phước đức, chúng ta phải có thân xác tốt. Linh hồn chúng ta
xấu ác sẽ có xác
thân xấu xí. Linh hồn tốt ví như người giàu có, phải mua nhà tốt ở.
Chúng ta hành Bồ-tát đạo
tạo
được nhiều công đức, khi nhận thấy thân này sắp hư hoại, chúng ta tạo
thân khác tốt hơn để tiếp tục công việc hoằng hóa độ sanh.
Đức Phật nói Ngài thành Phật ở chỗ này thì có
tên này, thành Phật chỗ khác có tên khác; nghĩa là Phật có phước báo
rồi, Ngài sử dụng phước đó để
tạo nhà ngũ uẩn ở
đâu cũng được. Ví như người có tiền tìm nhà tốt ở khu an ninh, sang
trọng để ở. Chúng ta nghèo phải vào xóm nghèo, phải chấp nhận sống chung
với những người hung ác, trộm cướp, v.v…
Trên
bước đường tu, khi thọ thân ngũ uẩn, chúng ta coi nó là chỗ tạm nương náu để tạo công đức. Nhưng thân này
hoại rồi, phải bỏ nó mà không có chỗ
khác ở thì tinh thần mê mờ sẽ dẫn đường
đưa lối, chỗ nào cũng chui vô
đại, chỗ ở của heo gà chó… cũng
vô, vì đâu có điều kiện để
lựa chọn.
Cần hiểu rằng
tạm
mượn thân ngũ uẩn, nhưng quan trọng là chúng ta được gặp Phật pháp,
nương theo Phật pháp tu hành, nương theo thầy hiền bạn tốt để khai ngộ
cho chúng ta làm quyến thuộc Bồ-đề, để giúp chúng ta tạo các thắng duyên
khác.
Vì được làm bạn với Bồ-tát mười phương, các ngài mới giới thiệu cho chúng ta vùng đất tốt đẹp, an lành. Đó là Tịnh độ
của
chư Phật mười
phương có rất nhiều, nhưng chúng ta
không biết. Các Bồ-tát chỉ cho chúng ta những nơi an lành ấy.
Tu
Pháp hoa là nương các vị này dẫn lối đưa đường cho chúng ta đi đến những
nơi an lành; nghĩa là bước đường tu của chúng ta đã có định hướng, nên bỏ xác rồi mới đến đó được. Nhiều người niệm Phật
A Di Đà, nhưng ít người được về Cực lạc là vậy. Phước đức thế nào mới
vào thế giới Phật
được.
Kỷ niệm mùa Phật đản PL.2561 - DL.2017, cầu mong Tăng Ni, Phật tử luôn
hướng tâm đến Đức Phật bất sanh bất diệt, sống với Phật Báo
thân vĩnh hằng bất tử để nuôi lớn Báo thân của chúng ta, để xây dựng cõi
Tịnh độ an lạc ngay trên cõi nhân gian này.
HT.Thích Trí Quảng