Một lần nữa, có khoảng hơn một nghìn lạt ma tái sinh được công nhận, hay
hóa thân (tulkus), và họ được minh chứng qua những cống hiến khác nhau
mà chính họ đã ban cho hay những lời tiên tri về thiên nhiên. Những thị
giả của những vị lạt ma trước đây sẽ tìm kiếm những vị mới tái sinh.
Họ sẽ mang những chủ đề nghi thức và những vật tùy thân của những vị lạt
ma trước đây cùng với những vật tương tự khác.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
HỎI:
Bạn có tin vào tái sinh không?
ĐÁP: Vâng, tôi tin. Nhưng, phải mất thời gian khá lâu.Sự tin
tưởng tái sinh không phải là tức thời. Một số người có truyền thống
tin vào tái sinh như một phần trong nếp sống văn hóa. Đây là trường
hợp chiếm đa số ở các quốc gia Á châu, vì người ta đã từng nghe về tái
sinh từ khi họ còn là những thiếu niên, sự tin tưởng điều ấy đến một
cách vô thức. Tuy nhiên, đối với nền văn hóa Tây phương, nó dường như
rất mới mẻ. Nhất thời chúng ta thường không dễ bị thuyết phục trong vấn
đề tái sinh , cùng với cầu vồng và âm nhạc phía sau lưng : “Chúa nhân
từ ơi! Bây giờ tôi đã tin!” điều này hiếm khi xảy ra .
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi
qua nhiều mức độ trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục về vấn đề
này. Đầu tiên, tôi có ý niệm rằng, “tôi không thật sự thấu hiểu vấn đề
tái sinh.” Phải thừa nhận rằng chúng ta không cho nó là quan trọng,
chúng ta phủ nhận tái sinh và Phật giáo cũng phủ nhận. Một người có thể
nghĩ, “tôi không tin tưởng vấn đề tái sinh bởi vì tôi không nghĩ rằng
có một linh hồn với đôi cánh bay khỏi thân thể và đi vào trong một thân
thể khác.” Phật giáo cũng đồng ý: “Chúng tôi cũng không tin vấn đề một
linh hồn với đôi cánh.” Nhằm để tìm hiểu có tái sinh hay không, tôi
đã quyết định tìm hiểu về khái niệm tái sinh của Đạo Phật, khái niệm ấy
thật không đơn giản. Nó rất phức tạp, khi quý vị có thể thấy từ điều
tôi đã giải thích trước đây về tâm thức vi tế (tám hay sáu thức tâm
vương) và năng lượng, hay những thiên hướng bản năng đi cùng với nó.
Rồi tôi đã nghĩ đến lợi ích về sự nghi ngờ tái sinh. Tạm thời,
hãy đề chúng ta nói rằng có sự tái sinh. Bây giờ, những gì đi theo với
cái nhìn trong sự hiện hữu, sự tồn tại của chúng ta trong cách này?
Chúng ta có thể thiết lập tất cả những sự rèn luyện bồ tát đạo, nhận ra
mọi người dường như đã từng là mẹ của mình vì thế có thể cảm thấy sự
liên hệ nào đấy với tất cả.
Cũng có thể giải thích tại sao mọi thứ đã xảy ra trong cuộc đời
của tôi . Tại sao một số người từ cùng nền văn hóa như tôi đã có khuynh
hướng mạnh mẽ để học tiếng Trung Hoa? Tại sao tôi đã được đưa đẩy để
đi đến Ấn Độ học tiếng Tây Tạng? Lưu ý đến những sự quan tâm của gia
đình tôi và trong môi trường mà tôi đã lớn lên, thật không hiểu vì sao
tôi lại thích thú những vấn đề này. Tuy nhiên, khi đã nghĩ trong dạng
thức của tái sinh, tôi đã có một sự giải thích. Tôi đã từng có một số
nối kết với Ấn Độ, Trung Hoa, và Tây Tạng trong những kiếp sống khác
nhau, chính điều này đã làm cho tôi bị hấp dẫn bởi những vùng đất , văn
hóa và ngôn ngữ của họ. Tái sinh đã bắt đầu trả lời nhiều câu hỏi mà
tôi không thể tìm bất cứ một đáp án nào trước đó; nếu không có những đời
sống quá khứ và không có nghiệp báo, thế thì những gì đã xảy ra trong
đời sống của tôi không làm nên bất cứ một ý nghĩa nào. Tái sinh cũng có
thể giải thích những giấc mơ lập đi lập lại mà tôi thường có. Trong
cách này, tôi đã bắt đầu một cách chậm rãi trở nên quen thuộc với nó.
Tôi đang học hỏi ở Ấn Độ trong mười chín năm qua và đã có một đặc
ân và cơ hội lớn lao để học hỏi với một số vị đạo sư rất già khi họ
còn sống. Nhiều người trong họ đã tạ thế và đã trở lại, và bây giờ tôi
gặp lại họ một lần nữa với hình hài là đứa trẻ. Tôi biết các ngài trong
hai kiếp sống.
Trong một điểm nào đấy của con đường Phật giáo mà với nó bạn có
thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Bạn không cần phải là một vị Phật,
hay ngay cả là một vị giải thoát, một vị a la hán, để làm việc này.
Tuy nhiên, bạn nhất thiết phải là một vị bồ tát. Bạn cũng cần thiết
được trau dồi nâng cao đến một tầng bậc nào đấy trên con đường mật thừa
tantric và để có một quyết định vô cùng mạnh mẽ để tái sinh trong một
hình sắc và bạn có thể hổ trợ mọi người. Có những phép quán tưởng và
phương pháp nào đấy mà có thể cho phép bạn chuyển hóa cái chết, thân
trung ấm và tái sinh. Nếu bạn đã điều khiển được trình độ ấy, bạn có
thể kiểm soát sự tái sinh của bạn. Có khoảng hơn một nghìn người trong
những người Tây Tạng, những người đã đạt đến trình độ ấy khi họ qua đời,
họ được tìm thấy một lần nữa. Trong hệ thống Tây Tạng, họ được gọi là
hóa thân (tulkus). Hóa thân là một vị lạt ma tái sinh, một số người
đạt danh hiệu là Rinpoche. Tuy nhiên,danh hiệu Rinpoche không được dùng
một cách rộng rãi cho những hóa thân (tulkus), hay lạt ma tái sinh. Nó
cũng được dùng cho một vị trụ trì hay một vị viện chủ tu viện nghỉ hưu.
Không phải người nào được gọi Rinpoche cũng là một vị lạt ma tái sinh.
Cũng thế, tôi cũng chỉ ra rằng cung cách mà từ ngữ lạt ma được sử
dụng không giống nhau từ một truyền thống này đến một truyền thống khác
của Tây Tạng. Một số lạt ma liên hệ đến một vị thầy tâm linh rất cao
(thượng sư), chẳng hạn như một geshe – một người tương đương với một
tiến sĩ Phật học (Ph.D) – hay một vị lạt ma tái sinh. Trong một số
truyền thống, lạt ma được dùng cho một số người thực hiện chức năng một
phần nào đó giống như một tu sĩ cộng đồng. Vị này đã hoàn thành một khóa
tu ba năm và đã học tập những nghi thức khác nhau. Người ấy( sư thầy
hay sư cô) sau đó sẽ đi đến những làng mạc và thực hiện các nghi lễ
trong nhà của người dân. Danh xưng lạt ma có thể có những ý nghĩa khác
nhau.
Một lần nữa, có khoảng hơn một nghìn lạt ma tái sinh được công
nhận, hay hóa thân (tulkus), và họ được minh chứng qua những cống hiến
khác nhau mà chính họ đã ban cho hay những lời tiên tri về thiên nhiên.
Những thị giả của những vị lạt ma trước đây sẽ tìm kiếm những vị mới
tái sinh. Họ sẽ mang những chủ đề nghi thức và những vật tùy thân của
những vị lạt ma trước đây cùng với những vật tương tự khác. Cậu bé sẽ
có thể nhận ra vật gì thuộc đời sống của vị trước đây. Thí dụ, Đấng
Hiện Diện Thánh Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhận ra những
người đến tìm ngài. Ngài gọi tên của họ và bắt đầu nói chuyện với họ
bằng phương ngữ Lhasa, mà đấy không phải là ngôn ngữ địa phương ngài
sinh ra. Bằng các dấu hiệu như thế, họ có thể xác định cậu bé.
Ling Rinpoche (1903-1983)
Gặp gỡ những vị thầy của tôi một lần trong đời sống kế tiếp của
các ngài đã hoàn toàn gây ấn tượng sâu sắc và cảm động đối với tôi. Thí
dụ ấn tượng nhất là Ling Rinpoche, người là vị trưởng lão giáo thọ của
Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài cũng là thượng thủ của tông Hiền Nhân - Hoàng
Mạo – Gelug. Khi ngài viên tịch, ngài đã duy trì trong thiền định gần
hai tuần lễ, mặc dù hơi thở của ngài đã dứt và đối với mọi kết quả y
khoa, ngài xem như đã chết. Tuy nhiên, tâm thức vi tế của ngài vẫn còn
trong thân thể của ngài: ngài đã chìm lắng trong một cơn thiền định rất
thậm thâm với tâm thức rất vi tế. Vùng chung quanh trái tim vẫn âm ấm
nhẹ nhàng, ngài ngồi trong tư thế thiền định với thân thể không có sự
phân hủy. Khi ngài chấm dứt cơn thiền định, đầu của ngài hơi nghiêng và
một ít máu rĩ ra từ lỗ mũi ngài. Vào lúc ấy, tâm thức của ngài đã rời
thân thể.
Ở Dharamsala, nơi tôi ở, những sự kiện như thế này xảy ra hai, ba,
bốn lần mỗi năm. Nó không phải là bất thường, mặc dù ai đấy cần phải
đạt đến một trình độ cao cấp của sự thực hành tâm linh để thực hiện điều
này. Khả năng này có thể đạt được.
Hóa thân Linh Rinpoche được công nhận khi ngài được một tuổi chín
tháng. Thông thường, những đứa trẻ không được xác nhận quá nhỏ, bởi vì
khi các vị lớn hơn – khoảng ba hay bốn tuổi – các vị có thể nói và đưa
ra một số chỉ dẫn về họ. Vị ấy được đưa về lại ngôi nhà mình. Có một
lễ đón mừng vô cùng long trọng để chào đón vị ấy. Vài nghìn người đứng
xếp hàng trên những con đường , và tôi đã có sự may mắn cùng với những
người chào đón ấy. Họ sẽ mặc những trang phục đặc biệt và ca hát. Đấy
là một sự kiện vô cùng hoan hỉ
HỎI: Làm thế nào đứa trẻ ấy được
xác nhận?
ĐÁP: Việc ấy qua những lời tiên tri, những điềm lành biểu hiện và
những đồng tử ngoại cảm, cũng như khả năng có thể nhận ra những đồ vật
đa dạng từ đời sống trước đây của vị ấy. Cũng là vị ấy biểu lộ những
đặc trưng thân thể nào đấy. Thí dụ, tiền thân của vị ấy luôn luôn cầm
xâu chuỗi với hai tay, và đứa trẻ cũng làm như thế. Vị ấy cũng nhận ra
những người sống cùng nhà (không phải là sư thầy hay sư cô).
Tuy nhiên điều thuyết phục đối với tôi nhất là thái độ cử chỉ của
các vị trong những buổi lễ. Vị ấy được đưa đến một lễ đường nơi một
pháp tòa được thiết lập gần cửa ra vào nhìn ra hiên nhà và hai hay ba
nghìn người tập họp trong sân. Hầu hết những đứa trẻ dưới hai tuổi có
thể rất hãi sợ trong những tình cảnh như thế. Vị ấy thì không. Người
ta đưa vị lên tòa sư tử. Thông thường, một đứa trẻ muốn đi xuống và
muốn khóc nếu không thể tìm ra lối của mình. Vị này ngồi xếp bằng mà
không di chuyển cả tiếng rưởi đồng hồ trong khi mọi người tiến hành một
nghi thức cầu nguyện trường thọ cho vị ấy. Vị ấy hoàn toàn thích thú
với những gì diễn ra, và ngự giữa một đám đông khổng lồ không làm vị ấy
chán nản chút nào.
Nhiệm vụ của buổi lễ hàm ý cúng dường cho vị lạt ma và thỉnh cầu
ngài sống trường thọ. Có một dòng người, mỗi người cầm vật phẩm cúng
dường – một tượng Phật, một bộ kinh, một tháp biểu tượng, một bộ y, và
nhiều thứ khác. Khi ai đấy cúng dường đến vị ấy, vị ấy phải đón nhận
với hai tay và đưa nó cho một người đứng bên trái của vị ấy. Vị ấy đã
làm điều này một cách hoàn hảo với mỗi đối tượng. Đấy là điều thật sự
ấn tượng! Làm thế nào chúng ta có thể dạy một đứa bé một tuổi chín
tháng làm những việc như thế ấy? Bạn không thể.
Khi buổi lễ đã chấm dứt, tất cả mọi người xếp hàng để nhận sự gia
hộ từ bàn tay ngài. Một người nào đấy bồng vị ấy, và ngài đưa tay ban
phúc, nắm tay trong một tư thế chính xác. Với sự hoàn toàn chăm chú, và
không đánh mất sự thích thú hay cảm thấy mệt mỏi, vị ấy sau đấy đưa
tay ban phúc đến hai hay ba nghìn người. Sau đấy, Đấng Hiện Diện Thánh
Thiện Tối Thượng, Đức Đạt Lai Lạt Ma dùng buổi trưa với vị này và họ
cùng bên nhau trong khoảng thời gian. Chỉ một lần vị thiếu nhi ấy đã
khóc và lầm ồn ào là khi Đức Đạt Lai Lạt Ma bắt đầu rời khỏi. Vị ấy
không muốn ngài đi.
Thật sự, ngài đã ban phúc bằng tay ngay cả trước khi ngài được
công nhận là hiện thân của Ling Rinpoche. Cả ngài và người anh của ngài
ở trong một trại mồ côi, vì bà mẹ đã lìa đời không bao lâu khi ngài
được sinh ra. Người cha rất nghèo và vì thế đã đưa những đứa trẻ vào
trại mồ côi. Ngài đã dùng tay ban phúc cho những người ở đấy. Anh của
ngài, ba hay bốn tuổi, thường nói với mọi người, “Em tôi rất là đặc
biệt. Đấy là một lạt ma. Đấy là một Rinpoche. Đừng nghĩ bất cứ điều
gì xấu với em tôi. Hãy cư xử đặc biệt với em tôi.”
Ling
Rinpoche hiện tại
Những tiền thân của Ling Rinpoch đã
từng là giáo thọ cho ba Đức Đạt Lai Lạt Ma liên tiếp. Một vị Ling
Rinpoche đã là giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười hai; Ling
Rinpoche tiếp theo là giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười ba; vị kế
tiếp là giáo thọ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn. Một cách chắc
chắn, người ta xem vị này sẽ là giáo thọ cho Đức Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp.
Chứng kiến những thí dụ này đã tạo nên một ấn tượng to lớn trong
tôi về sự có thể thực hiện được những đời sống tương lai. Do thế, bằng
suy tư, bằng nghe những câu chuyện và bằng chứng kiến những việc như thế
này, dần dần người ta trở nên bị thuyết phục về sự hiện hữu của đời
sống quá khứ và tương lai. Nếu bạn hỏi tôi bây giờ, “Ông có tin về
những đời sống tương lai không?” Vâng, tôi tin.
HỎI: Có phải những hóa thân lạt
ma chỉ tìm thấy trong những người Tây Tạng?
ĐÁP: Không, khoảng bảy vị cũng đã được công nhận trong những quốc
gia phương Tây. Một trong những vị ấy là, Lạt ma Osel, hóa thân của
Lạt ma Thubten Yeshe, một thiếu nhi Tây Ban Nha. Gặp gở Lạt ma Osel đã
làm cho những người đã biết Lạt ma Yeshe phải tin chắc trong sự tái
sinh.
Tác
giả: Alexander Berzin
Chuyển
ngữ: Tuệ Uyển – 16/03/2010
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/sutra/level1_getting_started/general_introductory_material/believe_rebirth.html |