Chúng ta có thể nói tất cả những lời dạy của đức Phật
đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến vấn đề đạo đức và chúng ta cần phải
định nghĩa đạo đức Phật giáo như thế nào trước hết cho phù hợp với dụng ý
thuyết pháp độ sanh của Ngài, sau đó ứng dụng nền đạo đức ấy vào thế giới loài
người của chúng ta, đặc biệt là con người hiện đại của chúng ta.
Khi Ngài tuyên bố: "Này các tỷ-kheo,
xưa cũng như nay Ta chỉ nói nên sự khổ và diệt khổ" (Trung Bộ I, 140), lời
tuyên bố xác nhận Ngài chỉ dạy cho loài người biết đến khổ và sự diệt khổ trong
suốt 45 năm qua thuyết pháp của Ngài. Chúng ta được biết trong kinh Chuyển Pháp
Luân, bản kinh đầu tiên của Ngài thuyết giảng cho 5 vị trước kia cùng tu khổ
hạnh với Ngài. Ngài đã tuyên bố: "Ðây là khổ, đây là khổ cần phải được
biết, đây là khổ đã được biết. Ðây là khổ tập, đây là khổ tập cần được đoạn
diệt, đây là khổ tập đã được đoạn diệt. Đây là khổ diệt, đây là khổ diệt cần
phải chứng ngộ, đây là khổ diệt đã được chứng ngộ. Đây là con đường đưa đến khổ
diệt, đây là con đường khổ diệt cần phải hành trì , đây là con đường khổ diệt
đã được hành trì. " Không những vậy ngài còn khuyên những đệ tử xuất gia
của Ngài: "Này các Tỷ-kheo hãy du hành, vì hạnh phúc của quần sanh, vì an
lạc cho quần sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc cho chư
thiên và loài người". (Tương Ưng I, 128).
Những lời tuyên bố trên của đức Phật nêu rõ
hoài bão tha thiết của Ngài là cứu khổ độ sanh, diệt khổ ưu, đem lại hỷ lạc cho
tất cả loài hữu tình. Và như vậy chúng ta có thể định nghĩa, đạo đức Phật giáo
là một nếp sống đem lại hạnh phúc và an lạc cho mọi loài chúng sinh, đặc biệt
là loài người chúng ta. Cần đặc biệt nhấn mạnh đây là một nếp sống, không phải
là những lời dạy luân lý hạnh kiểm cần phải theo một cách máy móc thụ động. Và
nếp sống ấy cần phải đem ra hành trì, thực hiện, không phải để lễ bái cầu xin.
Có thực hiện người hành trì mới hưởng được hạnh phúc an lạc, thiết thực hiện
tại và ngay trong đời này (sandithiko akàliko), có thể thấy biết được
(ehipassiko), không phải là một cảnh giới thiên đường xa xăm tưởng tượng .
Một số lời dạy sau đây của đức Phật càng
chứng minh rõ những lời dạy của Ngài là hướng tới diệt khổ và đem vui cho chúng
sinh: "Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống
đau khổ, với tổn não với ưu não, với nhiệt não, sau khi thân hoại mạng chung
được chờ đợi là ác thú . Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có
lòng tin, không có lòng xấu hổ, không có lòng sợ hãi, biếng nhác và ác tuệ.
Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trong hiện tại sống an lạc,
không có tổn não, không có ưu não, không có nhiệt não và sau khi mạng chung,
được chờ đợi là cõi lành Thế nào là 5? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có lòng tin, có
lòng hổ thẹn, có lòng sợ hãi, tinh cần tinh tấn, có trí tuệ... " (Tăng Chi
II, 11).
Một lời dạy tiếp, càng nhấn mạnh thêm:
"Thành tựu 5 pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình
và đem lại hạnh phúc cho người . Thế nào là 5? Ở đây này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đầy đủ giới hạnh và khuyến khích người khác đầy đủ giới hạnh. Tự mình đầy đủ
thiền định và khuyến khích người khác đầy đủ thiền định. Tự mình đầy đủ trí tuệ
và khuyến khích người khác đầy đủ trí tuệ. Tự mình đầy đủ giải thoát và khuyến
khích người khác đầy đủ giải thoát. Tự mình đầy đủ giải thoát tri kiến và
khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát tri kiến. Đầy đủ 5 pháp này, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đem lại hạnh phúc cho mình và đem lại hạnh phúc cho
người". (Tăng Chi II, 20).
Nếu Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem
lại hạnh phúc an lạc, nếp sống ấy cũng là một nếp sống đề cao cho con người vào
một vị trí tối thượng, xác định con người có khả năng đoạn trừ mọi khổ não,
chấm dứt sanh tử luân hồn. Lời của Ngài là cả một hình ảnh linh động của một
người dựa trên sức mạnh con người, tự mình đi tìm đạo, tự mình tu khổ hạnh, tự
mình hành thiền cho đến khi chứng quả, không nhờ một ai, không ỷ lại một thần
lực nào. Khi đến tìm đạo với Ngài Alarakalama, vị đã chứng thiền vô sở hữu xứ,
Ngài suy nghĩ: "Không phải chỉ Alarakalama có lòng tin, Ta cũng có lòng
tin, Không phải chỉ Alarakalama có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải
chỉ Alarakalama có niệm, ta cũng có niệm. Không phải chỉ Alarakalama có định,
Ta cũng có định. Không phải chỉ Alarakalama có tuệ, Ta cũng có tuệ". Với
những suy nghĩ như vậy, và với khả năng tự lực, tự cường, Ngài kiên trì tu tập
và chứng được quả Vô sở hữu xứ như Alarakalama đã chứng. Khi Ngài tự chứng niệm
trên bản thân rằng khổ hạnh không đưa đến giác ngộ, Ngài liền rời bỏ khổ hạnh,
hành trì thiền định, chứng được sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền
thứ tư, chứng được Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, giải thoát
khỏi các lậu hoặc, thành bậc Chánh đẳng, Chánh giác.
Như vậy đời Ngài từ khi tầm đạo đến khi giác
ngộ, chứng minh một cách cụ thể rằng, với thân con người với ý trí nỗ lực con
người, không nhờ vả ỷ lại một ai, Ngài đã được cứu cánh phạm hạnh tối thượng.
Ngài chứng minh rằng: không quá đau khổ trong cảnh giới địa ngục, không quá
sung sướng trong cảnh giới chư Thiên, chỉ với thân con người, tuệ tri được đau
khổ để vượt qua đau khổ, tuệ tri được lạc để giải thoát khỏi thiên lạc, đạt
được giải thoát lạc để thành bậc Chánh giác.
Như vậy Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đề
cao vị trí con người và chứng minh rằng con người có khả năng đạt đến giải
thoát tối thượng, nếu con người có đủ ý trí và nỗ lực của con người, nếu con
người tăng trưởng được niệm lực, định lực và thiền lựccủa con người, nếu con
người phát huy được tuệ lực giải thoát lực của con người.
Bước thêm bước nữa, đạo đức Phật giáo là một
nếp sống thanh tịnh, trong sạch và lành mạnh, vì chỉ có một đời sống thanh tịnh
mới bảo đảm được đời sống hạnh phúc. Trong kinh Ví dụ Tấm vải (Trung Bộ I, số
7), đức Phật xác nhận một tấm vải cấu uế đem nhuộm sẽ đươc một màu nhuộm không
tốt đẹp. Cũng vậy cõi ác chờ đợi một tâm cấu uế. Trái lại, một tấm vải thanh
tịnh trong sạch đem nhuộm sẽ được một màu nhuộm tốt đẹp. Cũng vậy cõi thiên chờ
đợi một tâm không cấu uế. Như vậy, hạnh phúc chỉ đến với một tâm trong sạch,
không đến với một tâm cấu uế.
Rồi Đức Phật kể 16 cấu uế tâm, trong ấy tham
sân si là chính, cần phải tẩy sạch và đoạn trừ, nhờ lòng tịnh tín bất động đối
với ba ngôi báu, nhờ chứng được nghĩa tín thọ và pháp tín thọ. "Từ nơi
đây, hân hoan liên hệ đến pháp sanh. Từ hân hoan, hỷ khởi lên. Từ hỷ, thân được
khinh an. Thân khinh an, cảm giác được lạc thọ. Với lạc thọ, tâm được thiền
định" (Trung Bộ I, 37A-37B). Muốn chứng được thiền định, phải loại trừ năm
triền cái được xem như là cấu uế của tâm thay thế bằng năm thiền chi tâm tứ hỷ
lạc và nhất tâm. Muốn chứng quả A-la-Hán, phải đoạn trừ ba lậu hoặc: Dục lậu,
Hữu lậu, Vô minh lậu; phải tẩy sạch mười kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ,
nghi, tham, sân, sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử và vô minh. Cũng phải đoạn trừ
7 tùy miên: tham tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy
miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên; và các triền cái, kiết sử, lậu hoặc,
tùy miên được xem như cấu uế của tâm. Và như vậy, một tâm trong sạch chờ đợi là
hạnh phúc an lạc, một tâm cấu uế chờ đợi là đau khổ, sầu muộn. Nói đến cấu uế
tức là nói đến bất thiện, nói đến trong sạch tức là nói đến thiện lành. Như vậy
đạo đức Phật giáo cũng là một nếp sống từ bỏ bất thiện, thực hiện điều lành,
như biết bao lời dạy của đức Phật về vấn đề này. Chúng ta đều nhớ câu:
"Không làm mọi điều ác,
Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch,
Chính lời chư Phật dạy.
(Pháp Cú 183)
Số phận chờ đợi kẻ ác và bậc thiện được phân
biệt rõ ràng:
"Một số sinh bào thai,
Kẻ ác sinh địa ngục;
Người thiện lên cõi trời
Vô lậu chứng Niết-bàn.
(Pháp cú 126)
Hay câu:
"Ác hạnh không nên làm,
Làm xong chịu khổ lụy;
Thiện hạnh ắt nên làm,
Làm xong không ăn năn".
(Pháp cú 319)
Sự sai khác giữa người ác và bậc lành cũng
được phân biệt rõ ràng:
"Người lành dù ở xa,
Sáng tỏ như núi tuyết;
Kẻ ác dù ở đây,
Cũng không hề được thấy,
Như tên bắn đêm đen.
(Pháp cú 309)
Khi được du sĩ Vacchagotta yêu cầu giảng vắn
tắt các pháp thiện và các pháp bất thiện, thế tôn phân tích rõ ràng như sau:
"Tham là bất thiện, sân là bất thiện, si là bất thiện; vô tham là thiện;
vô sân là thiên, vô si là thiện. Như vậy ba pháp là bất thiện, ba pháp là
thiện. Sát sanh là bất thiện, từ bỏ sát sanh là thiện. Lấy của không cho là bất
thiện, từ bỏ lấy của không cho là thiện. Tà hạnh trong các dục là bất thiện, từ
bỏ tà hạnh trong các dục là thiện. Nói láo là bất thiện, từ bỏ nói láo là
thiện. Nói hai lưỡi là bất thiện, từ bỏ nói hai lưỡi là thiện. Nói ác khẩu là
bất thiện, từ bỏ nói ác khẩu là thiện. Nói lời phù phiếm là bất thiện, từ bỏ
nói lời phù phiếm là thiện. Xan tham là bất thiện, từ bỏ xan tham là thiện. Sân
là bất thiện, từ bỏ sân là thiện. Tà kiến là bất thiện, từ bỏ tà kiến là thiện.
Như vậy này Vacha, mười pháp là bất thiện, mười pháp là thiện". (Trung Bộ
II, 135, bộ mới).
Trong kinh Song Tầm, Trung Bộ I, số 19, đức
Phật phân chia các Tầm ra hai loại:
- Dục tầm, sân tầm, hại tầm thuộc bất thiện
tầm, vì các tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt
trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn.
- Ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm thuộc
thiện tầm, vì các tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không
đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, hướng đến
Niết-bàn.
Vì sao có sự phân biệt này? Đức Phật nêu rõ:
"Ta thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện và
thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các pháp thiện" (Trung Bộ
I, 116). Ở đây chúng ta hiểu vì sao Đức Phật khuyên chúng ta
"Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân,
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thiện nhân.
(Pháp cú 78)
Hay câu:
"Ai dùng các hạnh lành,
Làm xóa mờ nghiệp ác,
Sẽ chói sáng đời này,
Như chăng thoát mây che"
(Pháp cú 73)
Đức Phật dùng một hình ảnh tuyệt đẹp để diễn
tả sự sai khác giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác: "Thật là xa,
thật xa, khoảng cách giữa mặt đất và bầu trời. Thật là xa, thật xa, khoảng cách
bờ biển bên này với bờ biển bên kia. Thật là xa, thật xa, khoảng cách chỗ mặt
trời lặn và chỗ mặt trời mọc. Nhưng còn cách xa, cách xa hơn nữa là khoảng cách
giữa pháp của bậc thiện và pháp của kẻ ác. "
Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đi đôi lạc
không đi đôi với khổ, đề cao một kinh nghiệm bản thân của Đức Phật, là đau khổ
không đưa đến giải thoát. Vương tử bồ đề trong kinh số 85, Trung Bộ II, đã đến
bày tỏ cảm nghĩ của mình: "Lạc được chứng đắc không phải do lạc, Lạc được
chứng đắc do khổ" (Trung Bộ II, 403).
Đây cũng là quan điểm của các Ni Kiền Tử,
khi các vị này tu khổ hạnh để thiêu đốt các nghiệp ác quá khứ. Quan điểm Đức
Phật khác hẳn, khi Ngài đã có kinh nghiệm 6 năm khổ hạnh của mình. Và lời dạy
hay pháp môn nào của Ngài cũng đem lại an lạc và hạnh phúc cho người hành trì.
Trước hết Ngài so sánh hai loại lạc:
- Lạc được Đức Phật gọi là lạc như phân, tức
là thụy miên lạc, lợi dưỡng lạc, cung kính lạc, danh vọng lạc (Tăng Chi I,
334-335), mà Đức Phật khuyên các đệ tử của Ngài tránh xa.
- Ngài đề cao lạc các bậc Thánh là viễn ly
lạc, an ổn lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, Niết-bàn lạc.
Ngài khuyên các đệ tử Ngài thường đi nghe
pháp để hưởng được pháp lạc, thường ngày hành thiền để hưởng được thiền lạc,
thường giữ gìn 5 giới, tu tập bát quan trai giới để hưởng được thanh tịnh lạc,
an tịnh lạc. Ngài gọi hành thiền là pháp môn hiện tại lạc trú, tức là đem lại
hỷ lạc hiện tại cho những vị hành thiền. Sơ thiền đem lại hỷ lạc do ly dục
sanh. Thiền thứ hai đem lại hỷ do định sanh. Thiền thứ ba đem lại xả niệm lạc
trú. Thiền thứ tư đem lại xả niệm thanh tịnh. Như vậy người hành thiền làm cho
sung mãn tràn đầy hỷ lạc do định sanh, không có chỗ nào trên toàn thân là không
do hỷ lạc ấy thấm nhuần.
Một nếp sống đề cao an lạc như vậy, nhưng
không hiểu sao có người lại hiểu lầm Phật giáo là bi quan yếm thế, trong khi
đúng lý, người Phật tử phải là người lạc quan nhất đời, luôn luôn được thấm
nhuần pháp lạc, thiền lạc, viễn ly lạc và an tịnh lạc.
Một đặc điểm khác của đạo đức Phật giáo là
đề cao một nếp sống giải thoát mọi ràng buộc. Mở đầu là các ràng buộc đối với 5
dục trưởng dưỡng tức là sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc êm dịu.
Đức Phật thường hay chỉ rõ sự nguy hiểm của dục: "Sợ hãi, này các Tỷ-kheo,
là đồng nghĩa với các dục. Bệnh, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục...
Cục bướu... tham dính... bùn lầy, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với các dục.
Và này các Tỷ-kheo vì sao sợ hãi là đồng nghĩa với các dục? Này các Tỷ-kheo,
say đắm bởi tham dục, bị trói buộc bởi các ham muốn, ngay trong hiện tại không
thoát được sợ hãi. Do vậy sợ hãi là đồng nghĩa với dục..." (Tăng Chi II,
309).
Trong Tiểu kinh Khổ uẩn, Trung Bộ số 14, Đức
Phật dạy cho Mahanàma rõ vì sao tuy vẫn biết tham, sân, si là cấu uế của tâm,
nhưng tham sân si vẫn thỉnh thoảng khởi lên, Ngài dạy: "Này Mahanàma, vì
pháp ấy trong ngươi chưa đựơc đoạn trừ nên ngươi sống trong gia đình và thọ
hưởng các dục". Đức Phật giải thích rõ thêm: "Này Mahanàma, khi nào
các vị thánh đệ tử, khéo thấy như vậy với như thật chánh trí tuệ: 'Các dục vị
ngọt ít, khổ nhiều não nhiều, sự nguy hiểm ở đây lại nhiều hơn,' và vị này
chứng được hỷ lạc do ly dục, ly ác bất thiện pháp sanh, hay một pháp nào cao
thượng hơn, như vậy vị ấy không bị các dục chi phối" (Trung Bộ I, 92-92B).
Ở đây chúng ta thấy trí tuệ đi đôi với thiền định mới có khả năng giải thoát
được lòng dục của con người, và chúng ta mới hiểu rõ vì sao Đức Phật dùng danh
từ tâm giải thoát, tuệ giải thoát để diễn tả một vị được giải thoát giác ngộ,
vì tâm giải thoát là giải thoát nhờ thiền định và tuệ giải thoát là giải thoát
nhờ trí tuệ. Hai giải thoát này cộng lại với nhau mới là một sự giải thoát toàn
diện.
Một điểm nổi bật trong Đạo đức Phật giáo là
vai trò trí tuệ trong tất cả các pháp môn đưa đến giải thoát và giác ngộ. Như
vậy cũng dễ hiểu, vì trí tuệ mới có công năng đoạn trừ các ác, bất thiện pháp,
các lậu hoặc, các kiết sử, các tùy miên vv... và vì vậy trong mọi pháp môn Phật
dạy đều có vai trò nổi bật của trí tuệ. Trong ba vô lậu học giới-định-tuệ, trí
tuệ đóng vai trò tuệ tri khổ, khổ tập, khổ diệt, con đường đưa đến khổ diệt;
tuệ tri các lậu hoặc, các lậu hoặc tập khởi, các lậu hoặc đoạn diệt, con đường
đưa đến lậu hoặc đoạn diệt. Nhờ tuệ tri như vậy nên nhàm chán sanh, do nhàm
chán nên ly tham, do ly tham đưa đến đoạn diệt, đưa đến tâm giải thoát và tuệ
giải thoát. Trí tuệ với khả năng giúp phân biệt đâu là pháp thiện, đâu là pháp
bất thiện, đâu là pháp đen, đâu là pháp trắng, đâu là thanh tịnh, đâu là cấu
uế, đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp. Nhờ sự phân biệt này, chúng ta mới có
thể từ bỏ các pháp ác, thành tựu các pháp lành. Chính nhờ trí tuệ, chúng ta tuệ
tri được vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của các dục.
Đức Phật xác định: "Này các Tỷ-kheo,
những sa môn Bà-la-môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các dục là vị ngọt như vậy,
sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là sự xuất ly như vậy, những
vị này sẽ như thật tuệ tri các dục của chúng, chúng có thể đặt người khác trong
địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các dục, sự kiện như vậy có xảy
ra" (Trung Bộ I, 87C). Trong 37 pháp trợ đạo, pháp môn nào cũng có trí
tuệ. Trong bốn niệm xứ, có quán pháp trên các pháp đối với 5 triền cái, 5 thủ
uẩn, 6 nội xứ ngoại xứ; trong 5 căn, 5 lực, có tuệ căn, tuệ lực; trong 7 giác
tri có trạnh pháp giác chi; trong 8 chánh đạo, có chánh tri kiến, chánh tư duy
thuộc về trí tuệ .
Một đặc điểm nữa của đạo đức Phật giáo là
xây dựng một nếp sống hài hòa với thiên nhiên và làm cho môi trường sống vừa
lành, vừa đẹp. Chúng ta thấy Đức Phật đản sanh ở ngoài trời, dưới một gốc cây,
thành đạo ở ngoài trời, dưới một gốc cây, thuyết pháp lần đầu tiên ở ngoài
trời, ở tại vườn nai, và thị tịch cũng ở ngoài trời, dưới gốc cây Ta La Song
Thọ. Đời sống của Ngài rất gần gũi với thiên nhiên, thân cận với núi rừng, hoa
viên và rừng lá. Đời sống của các vị xuất gia, đại đệ tử của Ngài cũng thường
là đời sống trong rừng núi, xa chốn thị thành, và hiện các hang động còn lại
như động Ajanta, Ellora, Kanheri đều nằm sâu trong núi thẳm, xác dịnh đời sống,
Đạo đức tu hành bao giờ cũng hài hòa với thiên nhiên, với núi rừng. Ở Việt Nam
chúng ta, chùa Yên tử, chùa Hương được xây dựng cheo leo trên núi đá, hoặc ẩn
sâu trong rừng rậm. Cũng như phần lớn chùa chiền Việt Nam, chùa nào cũng có
vườn cảnh, vườn hoa, cũng có hòn non bộ, cũng có hồ nước, có các loại cá bơi
qua bơi lại. Nhũng hình ảnh này chứng minh một điều là đời sống của các nhà
xuất gia theo Đạo Phật được sống trong môi trường thiên nhiên trong sạch, hài
hòa với những cảnh xung quanh, tĩnh tâm hài hòa với tĩnh vật, trăng sao soi
sáng thiền tâm.
Đạo đức Phật giáo đã là một nếp sống hài hòa
với thiên nhiên thời cũng là một nếp sống hài hòa với con người. Cho nên chúng
ta không lấy làm lạ khi được Dandapàni hỏi Ngài có quan điểm thế nào và giảng
dạy những gì, Đức Phật đã trả lời: "Theo lời dạy của ta, trong thế giới
với chư thiên, ác ma và phạm thiên, với các chúng sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên
và loài người, không có tranh luận với một ai ở đời" (Trung Bộ III, 109,
109A). Một câu tuyên bố nữa nói nên thái độ không tranh chấp của Đức Phật:
"Này các Tỷ-kheo, Ta không có tranh
chấp với đời, chỉ có đời tranh chấp với Ta. Này các Tỷ-kheo, Người nói pháp
không tranh chấp với một ai ở đời" (Tương Ưng III, 165).
Đặc tính cuối cùng của đạo đức Phật giáo là
một nếp sống vô ngã, một triết lý uyên thâm vi diệu, vừa giúp con người tự chủ,
thoát ly sự chi phối của thân người và thế giới, vừa vượt qua được các khổ đau,
sầu muộn, do tánh vô thường của tự ngã và thế giới gây ra, vừa là con đường đưa
đến tâm giải thoát và tuệ giải thoát .
Trước hết, Đức Phật nêu lên 6 kiến xứ của
người phàm phu như đã được trình bày trong Kinh Xà Dụ (22, Trung Bộ). Tức xem
sắc, thọ, tưởng, hành, thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta, và xem tự ngã
và thế giới sau khi chết, ta sẽ thường hằng, thường tồn mãi mãi. Trước hết, Đức
Phật phân biệt giữa người phàm phu ít nghe và vị thánh đệ tử nghe nhiều, người
phàm phu thời chấp thủ sáu kiến xứ này, còn vị thánh đệ tử nghe nhiều thời
không. Tiếp đến, Đức Phật nói đến sự vô lý của chấp ngã như đã trình bày trong
kinh Sáu Sáu, số 148, Trung Bộ 3: "Nếu mắt là tự ngã, như vậy không hợp
lý. Sự sanh và diệt của mắt đã được thấy nên phải đưa đến kết luận 'Tự ngã sanh
và diệt ở nơi tôi.' Do vậy nếu ai nói: 'Mắt là tự ngã', như vậy không hợp
lý" (Trung Bộ III, 474-475). Cũng vậy, đối với các pháp khác.
Kinh Vô ngã tướng lại nói thêm, xem 5 uẩn là
tự ngã không thể chấp nhận được, vì đối với thân của ta, ta không có quyền lực
muốn thân của ta phải như ý muốn ta. Do vậy không thể xem 5 thủ uẩn là tự ngã.
Rồi Đức Phật nói lên những nguy hiểm đau khổ do chấp ngã gây ra: "Ai khởi
nên ý nghĩ, cái gì chắc chắn của ta, nay chắc chắn không còn là của ta, chắc
chắn ta không được cái ấy. Suy nghĩ như vậy, nó sầu muộn than van khóc lóc, đập
ngực đi đến bất tỉnh. Nếu nó không suy nghĩ như vậy, thời nó đâu có sầu muộn
than van" (Trung Bộ I, 136A).
Còn những ai tin rằng sau khi chết, ta sẽ
thường hằng, thường tồn mãi mãi, và khi nghe Đức Phật hay đệ tử của Đức Phật
giảng pháp, bạt trừ tất cả kiến xứ, tịnh chỉ các hành, từ bỏ mọi sanh y, đoạn
trừ khát ái, thời vị ấy sầu muộn than van khóc lóc dập ngực đi đến bất tỉnh, vì
nghĩ rằng mình sẽ bị hoại diệt, không còn tồn tại. Cho nên mọi đau khổ khởi lên
đều chính do chấp 5 thủ uẩn này là của ta, là ta, là tự ngã của ta.
Để mọi người ý thức rõ 5 thủ uẩn là vô ngã,
Đức Phật đặt một số câu hỏi: "Sắc là thường hay vô thường? Cái gì vô
thường là khổ hay lạc? Cái gì vô thường, khổ chịu sự biến hoại, liệu có hợp lý
chăng nếu xem sắc là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi?" Các câu trả lời
tất nhiên xác nhận sắc là vô thường, là khổ, là vô ngã, cũng như các thủ uẩn
khác. Rồi Đức Phật đi đến kết luận, khích lệ các vị Tỷ-kheo cần phải quan sát:
"Này các Tỷ-kheo, bất cứ sắc pháp nào ... cảm thọ nào ... tưởng nào...
hành nào... thức nào quá khứ, vị lai, hiện tại, nội hay ngoại, thô hay tế, liệt
hay thắng, xa hay gần tất cả thức là: 'Cái này không phải của tôi, không phải
là tôi, không phải là tự ngả của tôi' (Trung Bộ I, 138A). Nhờ quán như vậy, vị
Thánh đệ tử nhàm chán đối với sắc... đối với thọ... đối với tưởng ... đối với
hành... đối với thức. Do nhàm chán nên ly tham, do ly tham nên được giải thoát.
Trong sự giải thoát có trí biết được đã giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã
tận, Phạm hành đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này
nữa" (Trung Bộ I, 139).
Như vậy chính nhờ quán vô ngã, vị hành giả
chứng được Thánh quả. Và đã chứng Thánh quả thời mọi đau khổ đều được tiêu diệt
hoàn toàn. Như vậy Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc cho con
người, đề cao giá trị con người, một nếp sống trong sạch thanh tịnh, lành mạnh,
loại bỏ các pháp bất thiện, thành tựu các thiện pháp, một nếp sống đi đôi với
lạc, không đi đôi với khổ, giải thoát các triền phược, các dục trưởng dưỡng,
một nếp sống trong ấy trí tuệ đóng vai trò then chốt, sống hài hòa với thiên
nhiên, với con người, một nếp sống vô ngã vị tha.
HT. Thích Minh Châu.