Những
ngày gần cuối năm Tây, nhận lời mời của Thiền sư Yamamoto Bunkei, Hội trưởng
Hội Lâm Tế Đông Kinh, tôi đến Nhật hai tuần lễ để tham dự các lễ hội truyền
thống. Nước Nhật trong ký ức tôi, sau một thời gian dài du học, sống đời sinh
viên vào nửa đầu thập niên 60, đã trở thành một thứ quê hương trú ẩn, để mỗi
khi về lại , tôi lại được trở về với sự thanh bình, an lạc và hạnh phúc trong
tâm hồn
. Tấm lòng thân cận và hài hòa của tôi và người Nhật, những con
người đã biết im lặng chịu đựng trong nhẫn nhục những đau khổ lớn lao về tinh
thần sau cuộc chiến điên cuồng, gần gũi cho tới nỗi vừa cất bước lên đường là
tôi đã có cảm giác như tôi đang trở về nhà–trở về Ngôi nhà của Đạo Nguyên Tào động “với hai bàn tay trắng” sau
khi đã rũ bỏ những bến bờ. Trạng thái thanh tịnh này của tâm tôi quả tình rất
khác với nỗi lòng ray rứt khi ở Việt Nam, càng khác xa những xót xa hoài vọng
giữa những ngày đất trích Hoa Kỳ. Có lẽ chỉ ở Nhật, tôi mới dễ dàng gặp lại
niềm tịch nhiên hằng hữu của những ngôi chùa im vang giữa một đời sống xã hội
rối động, gặp lại những vườn Thiền thanh thoát mà cây lá dường như vĩnh viễn
không xơ xác úa tàn, gặp lại những thiền sư hành giả mà hành hoạt một đời dễ
dàng và
thư thả như
không khí giữa trời. Tôi đã ngồi dự lễ trong lòng chùa Lâm Tế, giữa rất đông
Tăng sĩ và Phật tử một dạ tín thành với tình cảm tự tại như thế
.
Rời
chùa Lâm Tế, tôi lại đến Tri Ân viện (Chi On In) để cùng với pháp hữu thân
thuộc Đại Chí thiết lễ tưởng niệm ngài Pháp Nhiên thánh nhân, sơ tổ truyền thùa
Tịnh Độ Nhật Bản. “Con xin gửi mình nơi Đức Phật A Di Đà” đã trở thành câu linh
chú cho tất cả những ai đầy lòng thành tín trì niệm và hướng nguyện danh hiệu
Ngài để cơ cảm theo nguyện lực của Phật Vô lượng công đức mà đi về Cực lạc theo
chủ trì của Tịnh độ Chân tông mà ngài Pháp Nhiên là vị Thánh tăng trí tuệ đã ân
cần tuyên xướng cách đây 800 năm. Từ quá khứ lâu xa, bất cứ một nét sinh hoạt
nào từ ngoài được đưa vào Nhật đều trở thành bản sắc văn hóa Nhật, mang hơi thở
của hướng sống rất Nhật, đều sâu xa đường nét Đạo. Chùa Nhật sinh hoạt rõ rệt
theo màu sắc từng tông phái và sự chuyên tu được áp dụng khít khao để cuối
cùng, các tông phái hưng thịnh ấy trở thành những thế lực tâm linh và xã hội.
Với Phật giáo Việt Nam thì khác. Dựa vào truyền thống dung hóa, các Tổ ngày xưa
đã hòa hợp ba tông phái chính làm một, như chiếc đỉnh vững chãi trên ba chân:
Thời kinh sáng với Lăng Nghiêm, Đại Bi thập chú là tinh thần Mật tông;
buổi chiều tụng kinh A Di Đà, niệm phật và kinh hành là hồi hướng Tịnh
độ; sáng tối hai thời thiền tọa để nuôi dưỡng định lực và tỉnh thức là hương vị
Thiền tông. Một ngày tu tập trong cửa chùa Việt Nam trọn vẹn ý nghĩa Thiền,
Tịnh, Mật đều tu. Tôi lớn lên trong khí hậu dung hợp hài hòa đó nên khi có mặt
trong các lễ nghi của Phật giáo Nhật dù rất đặc thù tông phái, tôi vẫn không
cảm thấy xa lạ. Và trong đôi mắt sâu kín, tôí nhìn thấy người hành giả hành
thiền nơi chùa Lâm Tế, nơi tự viện Tào Động và người tín giả trong phút linh
cầu sâu lắng ở Tri An viện với hàng trăm tiếng thinh mõ nhịp rập ràng, đều đặn
chẳng có gì khác biệt nhau. Tất cả họ đều như là những nụ hoa anh đào tươi tốt
nở rộ giữa mùa Xuân tâm linh đang về. Dẫu thuộc tông phái nào đi nữa, người
hành trì không hề bị kỳ thị và vẫn có đầy đủ sự tự do, và một khi lối
đạo đã tỏ, thì như người an nhiên thâm nhập Tịnh độ, hoàn toàn tự tại: “Tất cả
mọi vật hiện hữu y như chúng hiện hữu theo bản tánh của chúng cách biệt
hẳn với mọi ảnh hưởng bên ngoài”, các tập quán thông tục và cả thời gian nữa
cũng không lưu dấu vết. Tôi có mặt trong nghi lễ tưởng niệm ngài Pháp
Nhiên, sơ tổ Tịnh Độ tông hôm nay với cái tâm an nhiên tự tại ấy: một lối sống
tín ngưỡng cho ta rất nhiều hạnh phúc, lượng hạnh phúc bao la đến từ thế giới
nhất tâm.
Nếu
mọi sự xảy ra trong hai tuần lễ tôi ở lại Tokyo và Kyoto đều là nhẹ nhàng tự
tại như là điều tôi đã cảm nghĩ thì làm gì khi về lại Los Angeles, tôi còn mang
theo cả một chút “sương mù cuối đông” của Phù Tang thơ mộng? Số là ngày cuối
năm ở Tokyo, Đài Truyền hình NHK, trong một chương trình phóng sự đã cho chiếu
cảnh Thiên hoàng và Hoàng hậu Nhật, đã làm sống lại trong tôi một dư ảnh. Năm
1963, khi vua cha đang tại thế, Đông cung thái tử và công chúa Mychiko (Mỹ Trí
Tử) là đôi trai tài gái sắc, vẻ thanh xuân tràn trề như sữa, mạch đời tươi tắn
như hoa. Thế mà, bẵng đi một thời gian, bây giờ Đông cung đã ở ngôi Thiên hoàng
15 năm, tuổi đời đã 69 và sắc xuân đổi màu. Bốn mươi năm sau nhìn thấy lại,
trước mắt, đúng chỉ còn là một ông bà cụ già không còn thanh cảnh nữa, trong
đôi mắt vua xa vời một vẻ thâm trầm chiêm nghiệm, còn hoàng hậu thì lưu lại một
chút phúc hậu của hoàng thái hậu ngày xưa và một thời sóng gió. Tôi bâng khuâng
nhớ lại thời còn sinh viên của tôi xưa cũ, mấy câu thơ của Lamartine ùa về thôi
thúc:
“O temp, suspends ton vol!
Et vous, heres propices
Suspendez votre cours!”
Hỡi thời gian hãy ngừng cánh lại
Giờ ngọc vàng xin hãy khoan bay.
Thời
gian vô hình và vô tình vẫn muôn đời làm chứng cho sự thật vô thường khiến cho
hai con người thuộc về cái quê hương đã in đậm nét ý nghĩa hữu thời cũng phải
ẩn nhẫn im lặng chịu đựng sự đi qua và tàn tạ. Màu sắc một đời người rồi cũng
chứa đầy ray rứt như màu thời gian của Đoàn Phú Tứ:
Màu thòi gian xanh
xanh
Màu thời gian tím ngắt
khiến
cho người hoảng hốt dừng lại không còn điên rồ tìm kiếm sự không thay đổi giữa
một thế giới thường trực đổi thay. Tôi có thoáng một chút sương mù tưởng tiếc
như thế khi thấy lại một cái gì không còn là cái của ngày xưa nữa nhưng mấy câu
kệ đầy thức tỉnh trong
bài kinh chiều lại hiện ra với tất cả hùng lực
Một ngày đã qua
Mạng theo đó giảm
Như cá ít nước
Đâu có vui gì...
Không
có ai có thể đưa tay níu lại thời gian để giữ cho mình không thay đổi. Thôi hãy
hài hòa chấp nhận và thảnh thơi sống với cái thời gian thực sư: đó là cách tìm
sự an tâm trước mọi đổi thay.
Trong
đời sống này, nguòi ta không chỉ dễ dàng buồn đau vì sự tàn phá cay nghiệt của
thời gian mà người ta còn bị đắm chìm trong tủi khổ của cái tâm phân biệt nhị
nguyên, chẳng biết đâu là đường đi nẻo về, là ý nghĩa thực sự của các
cặp đối chứng: sạch dơ, cao thấp, nhỏ to, tăng giảm...
Trong
mấy ngày cuối lưu lại Nhật, tôi lại thấy thêm một hoạt cảnh chiếu trên truyền
hình: Thủ tướng Nhật phát phần thưởng vô địch cho anh shumo Chiêu Thanh Long.
Anh Long người Mông Cổ nhập tịch Nhật, đã thi đấu 31 trận so tài gay cấn và
toàn thắng nên thành tích vẻ vang ấy. Khi trao giải thưởng, nhìn lên sân khấu,
tôi chứng kiến một hình ảnh đối nghịch rất buồn cười: Thủ tướng thì nho nhã
thanh tao, còn anh đô vật shumo thì to lớn như một thớt voi chiến đứng cúi đầu
thi lễ trước Thủ tướng để nhận thưởng. Con người trông bề ngoài nhỏ nhắn dịu
dàng kia là nhà chính trị uy tín đang lãnh đạo một siêu cường kinh tế và anh đô
vật to lớn dềnh dàng thì lại là đại diện ưu tú cho rnột ngành võ đạo Phù Tang.
Thế nào là nhỏ, thế nào là lớn? Tôi lại nhớ câu chuyện Thiền giữa nhà thơ Bạch
Lạc Thiên và Thiền sư Điểu Sào.
Thiền
sư Điểu Sào hay ngồi thiền trên cây cao có cành là xum xuê ở trong địa phận cầm
quyền của quan huyện Bạch Lạc Thiên. Một hôm, nhà thơ đến viếng thiền sư và nói
:
–
“Chỗ thầy ngồi trên cao thật nguy hiểm”.
Thiền
sư đáp:
–
“Chỗ của ông đang ngồi còn nguy hiểm hơn nhiều”.
Bạch
Lạc Thiên phân trần:
–
“Tôi là tri huyện, chỗ ấy đâu
có gì nguy hiểm”.
Sư
đáp: “Đó là chỗ ông không hiểu mà thôi. Khi lòng dục bừng lên là tâm ông không vững, thì còn
gì nguy hiểm hơn”.
Bạch
Lạc Thiên lại hỏi: “Phật giáo dạy điều gì?” .
Sư
tuyên tụng bài kệ:
Điều xấu phải tránh
Điều tốt nên làm
Giữ lòng trong sạch
Là lời Phật dạy.
Họ
Bạch phản đối: “Cái đó đứa bé lên ba cũng biết”.
Sư đáp: “Đứa bé lên ba biết. Nhưng ông lão
tám mươi cũng khó làm”.
Thế
nào mà hiểu cho được đâu là sự nguy hiểm của việc ngồi thiền trên cây cao và sự
nguy hiểm của việc ngồi cao trên quyền chức?
Tất
cả nhũng cặp đối nghịch như thế trong đời thật là khó nói–những biểu hiện trên
sân khấu và trong câu chuyện Thiền là hoàn toàn tự nhiên vô ngôn nhưng không
phải vì thế mà người ta có thể quên được.
Đó
là những gì lưu dấu từ một chuyến đi cuối năm. Đi và gặp lại Hạnh phúc – Thời
gian và cốt tủy sống đạo. Mấy dòng tâm tình này tôi viết để tặng: Đại sư
Yamamoto của Tri Ân viện Kyoto. Thiền sư Yamamoto Bunkei, Hội trưỏng Hội Lâm Tế
Tokyo, Đại sư Yoshimizu trú trì chùa Tịnh An và Sư cô Chân Từ Elizabeth.