Và
ngày nay, mức độ thảm khốc của thiên tai đang tăng dần lên vì có sự góp
mặt của những tác nhân tiêu cực do chính con người tạo ra. Bên cạnh
những thảm họa thiên nhiên như thường thấy, sự ô nhiễm không khí, cạn
kiệt nguồn nước ngầm, đất đai xói mòn, sa mạc hóa, biến đổi khí hậu và
mất cân bằng sinh thái là những thảm họa kinh hoàng khác mà nhân loại
đang đối mặt. Những thảm họa đó đang diễn ra khắp nơi, ai cũng biết,
cũng thấy, nhưng vì nhu cầu cuộc sống và vì phát triển kinh tế, thiên
nhiên ngày càng bị con người đối xử tệ bạc, bất chấp những rủi ro khốc
liệt hơn mà họ sẽ hứng chịu.
Từ những thập niên gần đây, khi vấn đề môi trường được cảnh báo là
càng lúc càng trở nên tồi tệ hơn, nhiều cá nhân và tổ chức ở khắp nơi đã
lên tiếng kêu gọi, tìm kiếm và đưa ra những giải pháp nhằm ngăn chặn
những việc làm gây tổn hại thêm cho môi trường.
Về phía Phật giáo, nhiều cá nhân và tổ chức cũng đã có những tiếng
nói và đưa ra những giải pháp tích cực cho vấn đề này. Những bài viết và
bài giảng của những nhân vật nổi tiếng trong Phật giáo như Đức Dalai
Lama, Thiền sư Nhất Hạnh, Tỳ kheo Bodhi, Ni sư Chứng Nghiêm,… liên quan
đến vấn đề môi trường đã xuất hiện trên các phương tiện truyền thông; và
những phong trào bảo vệ môi trường do các Tăng Ni, Phật tử khởi xướng
cũng đã hoạt động tích cực trong những thập niên trở lại đây ở Sri
Lanka, Thái Lan, Đài Loan và Nhật Bản…
Là những cá nhân và tổ chức thuộc Phật giáo, những giải pháp cho việc
bảo vệ môi trường được đưa ra thường dựa trên triết học và đạo đức học
Phật giáo từ những truyền thống Phật giáo khác nhau. Những giáo lý như
Duyên khởi, Nhân quả, Duy thức, và ngay cả tư tưởng Thiền học đã được
khai triển để ứng dụng cho vấn đề này.
Nhưng dù đứng ở nền tảng giáo lý nào và giải pháp đưa ra là gì, thì
cái nhìn chung của Phật giáo về môi trường thiên nhiên là cái nhìn “bất
nhị”, xem con người với môi trường thiên nhiên - bao gồm rừng núi, sông
biển, khí quyển cho đến các loại động thực vật khác nhau - là không hề
tách rời nhau; tất cả hỗ tương và đan xen trong một vòng quay nhân quả
phổ quát. “Lưới trời Đế Thích” trong kinh Hoa Nghiêm, một thuật
ngữ Phật giáo chỉ cho sự tương quan của hiện tượng giới trong vũ trụ,
nay giá trị của nó vượt qua khỏi phạm vi triết học trừu tượng để ứng
dụng thực tế hơn vào những vấn đề xã hội. Giáo lý tái sinh và nghiệp báo
không chỉ dừng lại ở phạm vi giải thích sự có mặt của con người, sự
không đồng nhất giữa các cá nhân, mà khía cạnh đạo đức của nó được đẩy
mạnh hơn bao giờ hết để con người ý thức hơn về trách nhiệm của mình đối
với tha nhân và môi trường sống.
Phật giáo được xem là tôn giáo có nền triết học mà sự ứng dụng của nó
vào những vấn đề môi trường có ý nghĩa vượt trội khi so sánh với những
tôn giáo khác. Tinh thần tôn trọng sự sống, yêu mến thiên nhiên, đề cao
sự bình đẳng giữa các loài sinh vật là những giá trị của Phật giáo được
đón nhận trong vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay. Khi những tôn giáo
nhất thần xem các loài sinh vật khác như là những phần thưởng được
Thượng đế ban tặng để phục vụ con người, dẫn đến một cái nhìn “nhị
nguyên” và dẫn đến sự phân chia con người và những loài sinh vật khác
như là hai phần đối lập, thì cái nhìn của Phật giáo về con người và môi
trường được xem là một tôn giáo có thái độ “thân thiện” đối với môi
trường. Đó không phải là cái nhìn chủ quan của những người Phật tử, mà
là cái nhìn chung của nhiều người, trong đó có cả những sử gia Tây
phương theo Thiên Chúa giáo (Damien Keown, 2005, tr.39).
Tuy vậy, dù Phật giáo có cái nhìn “bất nhị” giữa con người với môi
trường và các loài sinh vật khác, và những giá trị đạo đức liên quan đến
vấn đề này được tìm thấy trong rất nhiều kinh điển, thì một số nhà môi
trường học lại không cho rằng lĩnh vực đạo đức học của Phật giáo có thể
ứng dụng được vào việc giải quyết vấn đề môi trường hiện tại, vì Phật
giáo luôn chủ trương một loại đạo đức “thoát khổ”, chú trọng vào việc
giải thoát khổ đau cá nhân. Và cái nhìn của Phật giáo về môi trường
thường bị gán ghép với thuyết hình nhân, xem việc bảo vệ thiên nhiên là
chỉ để phục vụ cho con người, mà không phải chung cho các loài khác
(Damien Keown, tr.40).
Xem đạo đức học Phật giáo là một loại đạo đức “thoát khổ” thì không
sai, nhưng cho rằng nền đạo đức học này không liên quan gì đến việc bảo
vệ môi trường thì lại không hợp lý. Nói chung, Phật giáo luôn chú trọng
đến việc đào luyện tâm thức cá nhân, xem đó như là mấu chốt quan trọng
trong việc đạt đến giải thoát, giác ngộ. Nhưng xem việc đào luyện tâm
thức không có sự tác động nào vào đời sống xã hội là điều hoàn toàn sai
lầm. Xã hội và môi trường sống, từ cách nhìn của Phật giáo, không có gì
khác hơn ngoài sự mở rộng tâm thức con người và cộng đồng; một sự kết
hợp của biệt nghiệp và cộng nghiệp. Theo Duy thức học thì đó không có gì
khác ngoài sự phản chiếu của tâm thức.
Trong Phật giáo, không thể nhìn đạo đức học như là một lĩnh vực tách
biệt ra khỏi những lĩnh vực khác như triết học và tâm lý học. Đạo đức
theo Phật giáo không chỉ được nhìn từ góc độ tốt và xấu dựa trên hành
vi, mà nó còn phải được phân tích qua trạng thái tâm ý. Việc liên hệ đạo
đức học Phật giáo với vấn đề môi trường như vậy không chỉ là những giải
pháp cho sự ngăn chặn những hành vi bên ngoài, mà là sự chuyển đổi suy
nghĩ và tâm thức con người, để từ đó con người có một thái độ thân thiện
hơn đối với môi trường thiên nhiên.
Khi nói đến đạo đức môi trường, thường có ba vấn đề quan tâm được đặt
ra: trước hết, đạo đức phải là một vấn đề phổ quát, một vấn đề chung
của toàn thể loài người, nó không giới hạn bởi khu vực và vùng địa lý;
thứ hai, đạo đức không chỉ giới hạn nơi đời sống hiện tại mà còn tính
đến những thế hệ tương lai; và thứ ba, đạo đức vượt qua ranh giới loài
người, tức đạo đức phải tính đến những loài không thuộc con người như
muông thú, cây cối và hệ sinh thái (Padmasiri de Silva, 1998, tr.15).
Đề cập đến đạo đức phổ quát, thoát ra khỏi vùng địa lý là để mọi
người có một trách nhiệm chung trong vấn đề môi trường. Để những nước có
nền công nghiệp phát triển phải chịu trách nhiệm về sự nóng lên toàn
cầu và những biến đổi khí hậu mà họ là chủ nhân đã gây ra trong quá khứ
(và cả hiện tại). Và các nước nghèo - vì muốn phấn đấu cho bằng các nước
phát triển, cũng ra sức khai thác các nguồn tài nguyên, và ra sức thải
khí các-bô-nic vào khí quyển bởi so bì rằng họ phải có những quyền như
những nước giàu đã làm trước đây - cần phải tuân thủ những nguyên tắc về
bảo vệ môi trường trong những hoạt động kinh tế vì lợi ích chung của
toàn địa cầu. Đạo đức tính đến thế hệ tương lai, tức là để tránh tình
trạng khai thác tài nguyên một cách vô tội vạ, dẫn đến sự cạn kiệt và
thế hệ tương lai không còn gì để “khai thác”, và cũng để giảm tối thiểu
những tác hại mà hậu thế phải gánh chịu do thế hệ hiện tại gây ra. Và
đạo đức phải tính đến muông thú, cây cối, tức để cân bằng hệ sinh thái
và tôn trọng quyền sống của mọi loài.
Khi đề cập đến đạo đức Phật giáo đối với vấn đề môi trường là đề cập
đến cách nhìn của Phật giáo đối với những gì không thuộc thế giới con
người như rừng, muông thú, hệ sinh thái, thiên nhiên; và quan điểm của
Phật giáo đối với việc phát triển kinh tế là như thế nào. Có hai nguyên
tắc trong Đạo đức học Phật giáo được đặt ra ở đây liên quan đến vấn đề
này là lòng từ bi và không gây hại (ahimsa). Nhưng trước khi đi vào bàn
luận đạo đức Phật giáo đối với môi trường, chúng ta cần biết rằng vấn đề
môi trường là một vấn đề của ngày hôm nay, chứ không phải là một vấn đề
được đặt ra từ thời Đức Phật. Không có những lời Phật dạy liên hệ một
cách trực tiếp đến vấn đề này. Do đó ở đây chúng ta chỉ có thể xem xét
những hàm ý của giáo pháp Đức Phật đối với môi trường thiên nhiên, và
thái độ hành xử của người Phật tử đối với những gì không thuộc thế giới
con người là như thế nào.
Trước hết là thái độ của Phật giáo đối với rừng. Từ thời điểm Phật
giáo vừa được hình thành, rừng đã là một nơi rất thân thiết đối với đời
sống tu tập của các Tỳ kheo. Dù có những tự viện được thành lập và đời
sống cộng đồng của các Tăng lữ trong những tự viện đó đã phổ biến, vẫn
có những vị Tăng chọn lối sống độc cư thiền định trong rừng; và rừng
được xem như là một nơi “khả ái” cần được tôn trọng và bảo vệ. Đối với
các Tỳ kheo, có một số điều luật được đặt ra, khuyên họ không nên làm
hại đến cây cỏ, và làm dơ bẩn nguồn nước. Trong một vài bản kinh, những
cây cổ thụ được xem là nơi cư ngụ của các thần linh (cụ thể là trong các
truyện Jakata). Và các Tỳ kheo sống theo hạnh không gây hại được
khuyên nên tránh những hoạt động gây tổn hại cho những sinh linh khác,
dù hữu hình hay vô hình.
Việc an cư mùa mưa của chư Tăng ngoài ý nghĩa dành một thời gian nhất
định để phát triển đời sống tâm linh, còn có cả mục đích không gây hại
cho những loài sinh vật khác trong thời kỳ nảy mầm, sinh sôi phát triển.
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Tâm Địa khuyên dạy rằng, người Phật tử
không được phóng lửa đốt phá núi rừng. Và trong quá khứ, chính vị vua
Phật tử Asoka đã đưa điều này vào trong chính sách cai trị của mình,
ngăn cấm việc đốt phá rừng một cách bừa bãi. Vì việc đốt phá rừng bị xem
là hành vi gây hại cho nhiều loài sinh vật, dẫn đến làm tổn phước cho
bản thân và cộng đồng. Thái độ yêu mến thiên của Phật giáo còn thể hiện
qua việc lựa chọn nơi chốn xây dựng chùa viện. Vào thời Đức Phật, các
tinh xá (chẳng hạn như Kỳ Viên và Trúc Lâm) đều tọa lạc tại những khu
rừng, hoặc vườn rừng. Và truyền thống này được thừa kế mỗi khi Phật giáo
được truyền bá đến những xứ sở khác nhau.
Ngày nay, những Tăng sĩ Phật giáo ở Sri Lanka và Thái Lan, những
người sống trong rừng, ngoài việc đang thực hiện một nếp sống và phương
thức tu tập được truyền thừa từ truyền thống Phật giáo xa xưa, họ còn là
những người bảo vệ rừng một cách hiệu quả. Những đóng góp của họ trong
việc ngăn chặn nạn đốt phá rừng được công nhận và được đánh giá rất cao ở
những quốc gia này.
Tôn trọng sự sống là một điều rất được đề cao trong Phật giáo. Cấm
sát sanh và làm hại thú vật là một trong những giới luật căn bản dành
cho mọi Phật tử. Việc tôn trọng sự sống không chỉ vì từ bi, vì niềm tin
vào luân hồi và nghiệp báo, mà còn vì ý thức rằng mọi loài sinh vật đều
có quyền sống bình đẳng và môi trường sống là dành cho tất cả mọi loài
trên trái đất này chứ không phải dành riêng cho con người (David J.
Kalupahana, 2008, tr.137-142). Thái độ của Phật giáo đối với các loài
sinh vật như vậy đã hình thành nên một quan điểm đạo đức hành xử đối với
các loài không thuộc con người: con người cần từ bỏ quan điểm xem mình
là loài định đoạt tất cả những loài khác; cần phải xem mình và các loài
sinh vật khác như là những “láng giềng” của nhau. (Peter Harvey,
tr.185).
Chúng ta hãy đọc một đoạn này trong kinh Từ Bi để hiểu thêm
quan điểm đạo đức của Phật giáo đối với mọi loài sinh vật, “Nguyện cho
tất cả các loài sinh vật trên trái đất đều được sống an lành, những loài
yếu, những loài mạnh, những loài cao, những loài thấp, những loài lớn,
những loài nhỏ, những loài ta có thể nhìn thấy, những loài ta không thể
nhìn thấy, những loài ở gần, những loài ở xa, những loài đã sinh và
những loài sắp sinh. Nguyện cho đừng loài nào sát hại loài nào, đừng ai
coi nhẹ tính mạng của ai, đừng ai vì giận hờn hoặc ác tâm mà mong cho ai
bị đau khổ và khốn đốn. Như một bà mẹ đang đem thân mạng mình che chở
cho đứa con duy nhất, chúng ta hãy đem lòng từ bi mà đối xử với tất cả
mọi loài” (Kinh Từ Bi, bản dịch của Thiền sư Nhất Hạnh).
Trong Phật giáo, ý thức và đạo đức luôn liên hệ mật thiết với nhau.
Nói cách khác là hành vi đạo đức cần y cứ nơi một tâm thức đầy từ bi và
tĩnh lặng. Không gây hại cho các loài sinh vật là một hành vi đạo đức,
nhưng điều đó phải được phát xuất từ tâm từ bi thực sự. Và khi tâm từ bi
đối với mọi loài được phát triển đến một tầm mức cao, đạo đức được thể
hiện sẽ có hiệu quả một cách tự nhiên. Nó có thể cảm hóa và thu phục các
loài muông thú. Điều này được chứng minh qua việc Đức Phật thu phục con
voi say Nalagiri, cũng như trường hợp voi và khỉ dâng cúng thực phẩm
lên Ngài. Trong kinh có kể một câu chuyện rằng, có một vị Tỳ kheo bị rắn
độc cắn chết; và khi biết được sự việc này Đức Phật đã dạy rằng, nếu vị
Tỳ kheo ấy có thái độ từ tâm đối với các loài rắn độc, thì vị ấy đã
không bị rắn cắn chết. Những điều này không phải là huyền thoại khi ngày
nay những vị Tăng sống trong rừng ở Thái Lan, Miến Điện và Sri Lanka
cũng có khả năng cảm hóa muông thú, ngay cả với những loài thú hung dữ
như cọp, báo (Peter Harvey, 2000, tr.171).
Vấn đề phát triển kinh tế bằng mọi giá là một trong những nguyên nhân
làm suy thoái môi trường sống hiện nay. Bởi vì số lượng tài sản và mức
độ tiêu thụ trở thành thước đo cho giá trị một đời sống, nên từ cá nhân
đến cộng đồng, mọi người ra sức phát triển kinh tế và ra sức tiêu thụ,
biến quả đất thành một nhà máy và thị trường khổng lồ. Thái độ sống của
những người theo chủ nghĩa đoạn diệt từ thời Đức Phật, nay được con
người hiện đại áp dụng sâu rộng vào trong đời sống. Nhưng chủ trương đời
sống hưởng thụ của những người theo thuyết đoạn diệt ngày xưa không vi
phạm vấn đề đạo đức bởi lối sống đó không gây hại cho người khác, còn
nếp sống lạm dụng hưởng thụ ngày nay là một vấn đề của đạo đức học, bởi
vì vấn đề tiêu thụ quá mức có liên hệ mật thiết đến việc làm tổn hại môi
trường, làm tổn hại đời sống tha nhân và các loài khác.
Phật giáo luôn chủ trương một nếp sống giản đơn, tiết kiệm. Phát
triển kinh tế phải đồng thời với việc phát triển đạo đức, phát triển tâm
thức và phát triển sự nhận thức về con người và thế giới. Phật giáo
không phủ nhận việc phát triển kinh tế, bởi sự thiếu thốn tài vật dễ đưa
con người đến vi phạm những vấn đề đạo đức và làm băng hoại xã hội.
Nhưng sự giàu có được xây dựng trên một đời sống phi đạo đức lại đưa xã
hội đến sự băng hoại theo một cách khác. Kinh tế học Phật giáo do đó
hướng đến sự cần kiệm, cân bằng, giản đơn và không gây hại. (E. F.
Schumacher, 1973, tr.52).
Việc đặt ra vấn đề tôn trọng và bảo vệ rừng, đấu tranh cho quyền
muông thú, và giảm bớt vị thế con người làm trung tâm để cho mọi loài có
thể chia sẻ những ích lợi giống nhau mà thiên nhiên đã ban tặng đôi khi
bị xem là điều hài hước khi người ta hầu như ngày càng gia tăng thêm
thú vui hưởng thụ thịt động vật, và tham muốn làm giàu từ việc khai thác
và tiêu diệt không thương tiếc nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn hữu hạn
đang được thực hiện một cách vô trách nhiệm.
Theo Phật giáo, con người chỉ là một loài trong sự cộng sinh đa dạng
của các loài hữu tình nơi một thế giới có điều kiện, dù vẫn có những
niềm vui và hạnh phúc nào đó, thế giới vẫn chất chứa nhiều đau khổ,
không chỉ cho con người mà cho tất cả mọi loài. Con người là loài động
vật tiến bộ nhất, nhưng chính con người là loài đã gây ra nhiều khổ đau
và thảm họa nhất cho những loài khác. Việc tôn trọng và đối xử với mọi
loài, với thiên nhiên như đối xử với con người là điều rất khó thực hiện
khi tập khí “con người bá quyền” vẫn còn sâu đậm trong mỗi cá nhân. Xem
mọi loài bình đẳng như nhau đôi khi trở thành xa vời và phi thực tế;
đạo đức đối với muông thú và cỏ cây hẳn bị xem là huyễn hoặc khi mà con
người vẫn còn thích gây khổ cho nhau. Tuy nhiên, nếu vì vậy mà không nỗ
lực thực hành và không có những thái độ hợp lý thì một lúc nào đó, thái
độ coi thường và hủy diệt các loài sinh vật khác cũng sẽ hủy diệt chính
bản thân mình.
Tiếng nói đạo đức của một tôn giáo có thể sẽ không được những những
người lãnh đạo có trách nhiệm lắng nghe, nhưng tiếng nói ấy có thể lay
chuyển phần nào tâm thức của những tín đồ theo tôn giáo đó. Một giải
pháp của tôn giáo cho một vấn đề xã hội có thể sẽ không được chú ý đến,
nhưng giáo dục tín đồ sống có đạo đức là trách nhiệm của những người
lãnh đạo tôn giáo. Bắt đầu được phát xuất từ việc thay đổi nhận thức của
mỗi cá nhân, bắt đầu từ việc giảm thiểu đi tham, sân, si, xã hội sẽ dần
thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp hơn khi tâm thức của mỗi cá nhân thay
đổi theo chiều hướng tích cực hơn. Theo cách nhìn của Phật giáo, sẽ
không bao giờ có một xã hội tốt đẹp khi ở đó cộng tồn những cá thể chất
chứa quá nhiều tham, sân, si - gốc rễ của những hành vi bất thiện.
(Padmasiri de Silva, 2005, tr.4).
Như đã nói, khi mà việc cư xử giữa con người với nhau vẫn còn chưa
tốt, khi mà việc bắn giết chim muông, vặt hoa bẻ cành diễn ra công khai
và trở thành thói quen của nhiều người, thì việc yêu cầu phải sống có
đạo đức với rừng, với các loài động vật là điều không dễ thực hiện. Tuy
vậy, việc tìm kiếm thêm giải pháp cho một vấn đề đang được báo động là
điều cần thiết, và dù phạm vi chỉ dừng lại trên phương diện ngữ ngôn thì
cũng cần thiết phải đặt ra.