-Phần
2-
Chương II
Nội
Dung Kinh Di Giáo
A. Lời Mở Ðầu
Của Kinh Di Giáo
Vài lời ngắn gọn nhưng
lời mở đầu đã khái quát cuộc đời của Ðức Phật
từ lúc thuyết pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển
cho 5 anh em Kiều Trần Như, cho đến lần thuyết pháp sau cùng
độ cho Tu bạt đà la. Rồi dạy những lời di huấn cho đệ
tử dưới cây Sa La trong hơi thở cuối cùng. Hình ảnh ấy
qua lời mở đầu đã nói lên sự nghiệp hoằng pháp lợi
sinh vĩ đại của một bậc đạo sư.
Ý tứ lời mở đầu là:
1. Giới thiệu tổng
quát cuộc đời thuyết pháp độ sinh của Ðức Phật từ
lúc khởi đầu cho đến lúc kết thúc. Coi trọng công
cuộc độ sanh tức là nhấn mạnh mặt tích cực, mặt
lợi ích mà đức Phật đã cống hiến cho cuộc đời.Thường
thì khi giới thiệu đức Phật, người ta thường bắt đầu
khi Ngài sinh ra, lớn lên xuất gia tu học...cho đến nhập
diệt. Nhưng ở đây muốn nhấn mạnh cuộc đời độ sinh
hơn.
2. Cuộc đời độ
sinh của Ngài, hạnh nguyện của Ngài đến đây đã viên
mãn như kinh thường nói: Tự giác, Giác tha, Giác hạnh viên
mãn. Nhưng những gì cần làm đã làm xong, những người có
thể độ đã hóa độ tất cả. Ðiều này cũng nói lên
sự hoàn thiện, vi diệu của giáo pháp,nhờ vậy mà đạt
được những thành quả lớn lao.
3. Những lời Di giáo
sắp nói đây là những điều cốt yếu của giáo pháp.Giáo
pháp đức Phật đã giảng dạy suốt cuộc đời rất
rộng rãi bao la khó lĩnh hội hết được. Cuối cùng,lúc
sắp nhập Niết bàn Ngài đã tóm tắt những điều cốt lõi
thiết yếu nhất để cho đệ tử nuơng vào đó mà tu
học, khỏi bị bơ vơ lạc lối.
B. Giới Học
I. Xác Ðịnh
Giới Luật Là Ðạo Sư.
Từ "Nhữ đẳng
tỳ kheo... vô dị thử giả": Kinh văn nói rất rõ rằng
sau khi đức Phật diệt độ thì phải tôn trọng quí kính
tịnh giới,như người mù được mắt sáng thì phải giữ gìn
con mắt đó, như người nghèo mà được vàng ngọc thì
phải bảo vệ nó. Phải biết rằng tịnh giới là đức
thầy cao cả chẳng khác nào đức Phật còn tại thế.
Trong giới bổn tỳ
kheo cũng nói tương tự về sự giá trị của giới:
"Giới như biển
cả
không có bờ mé
lại như ngọc báu
cầu hoài không chán"
và:
"Như Lai đã khéo
nói ra giới kinh
Như Lai lại khéo
Nói ra giới pháp
Dầu rằng Như Lai
Nhập vào Niết bàn
Chư vị hãy coi
Giới ấy như Phật" (Tỳ kheo giới, Trí Quang dịch
1994)
Tôn trọng giới luật
có nghĩa là tôn trọng con đường đưa đến giải thoát,
bởi lẽ giới là nền tảng cho định tuệ. Cũng có nghĩa là
tôn trọng giữ gìn điều thiện điều tốt, biểu hiện tâm
hướng thượng của người Phật tử vì đặc tính của giáo
pháp là có khả năng hướng thượng.
Sau cùng, tôn trọng
giới luật. Coi giới luật như Phật là thể hiện trách
nhiệm đối với sự tồn vong của Phật pháp, như giới
kinh đã dạy:
"Giới kinh tồn
tại
lâu dài trong đời
thì pháp của Phật
sẽ được hưng thịnh" (Tỳ Kheo giới, Trí Quang
dịch)
II. Những Giới Ðiều
Tiêu Biểu
Từ "Giữ tịnh
giới... không nên tích trữ "
1- Ðoạn này nêu lên
một số giới điều tiêu biểu nhưng rất cụ thể –
Những giới điều này phù hợp với một số giới điều
trong giới bổn và một số thì trong các kinh.
Trong 30 giới xả đọa
của tỳ kheo giới, giới thứ 19 nói: "Nếu tỳ kheo mà
đổi chác các thứ tiền và của báu thì phạm ni tát kỳ
ba dật đề". Giới 20 nói: "Nếu tỳ kheo mà mua rẻ
bán đắt mọi thứ thì phạm ni tát kỳ ba dật đề"
(Tỳ kheo giới Trí Quang dịch). Những giới điều đó tương
đương với lời Phật dạy trong đoạn này: "Các thầy
không được buôn bán, đổi chác, sắm sửa đấùt nhà,nuôi
người tôi tớ và súc vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh tài
bảo.
Trong 90 giới Ba dật đề,
giới thứ 10 nói:" Nếu tỳ kheo tự tay đào đất hay
bảo người đào đất thì phạm Ba dật đề". Giới
thứ 11 nói: "Nếu tỳ kheo chặt phá cây cối thì phạm
Ba dật đề". Kinh Di giáo nói gọn hơn:"Kể cả
việc chặt phá cây cỏ và đào cuốc đất đai
Những điều như:"chế
thuốùc thang, coi thiên văn, đoán thời tiết, tính lịch
số...không tham dự thế sự, lãûnh sứ mạng liên lạc, chú
thuật, thuốc tiên, giao hảo kẻ quyền quý..." đều có
ở trong các giới bổn như điều 18 trong 24 thiên oai nghi,
giới thứ 29 của Bồ tát giới.
2. Ðoạn này trình bày
một số giới điều, dù không đủ như giới bổn, nhưng
rất rõ là thiết lập giới theo công thức giới trong bát
chánh đạo: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
a) Chánh ngữ: là ngôn
ngữ chân chánh, nghĩa là không tà ngữ, theo HT Trí Quang thì:
"Tà ngữ theo tà pháp và tà ngữ theo tà nhân. Tà ngữ
theo tà pháp là tà thuật như đọc chú thuật. Tà ngữ theo
tà nhân là giao hảo với quyền quý, nên nói năng với họ
một cách hèn hạ, thân thiết với họ rồi ăn nói với người
khác một cách ngạo mạn (Trí Quang giải).
b) Chánh nghiệp: Hành
vi chân chánh, trái lại là tà nghiệp , gồm tiết chế cơ
thể, ăn đúng thì giờ, sống bằng cách sống trong sạch,
không tham dự thế sự, lãnh sứ mạng liên lạc...
c) Chánh mạng: phương
tiện sinh sống chân chánh, traí lại là tà mạng, gồm:
"buôn bán đổi chác, sắm sửa đất nhà, nuôi người tôi
tớ và sú2c vật, lo việc gieo trồng, kinh doanh vàng bạc, điều
chế thuốc thang, coi bói tướng, coi thiên văn, đoán thời
tiết , tính lịch số đều không thích hợp.
Như vậy giới được
trình bày là những điều kiện bảo đảm cho hành vi đạo
đức gồm hành vi ngôn ngữ, phương tiện sinh sống, ngăn
ngừa thân khẩu ý đi vào con đường sai lầm và tội lỗi.
Mặt khác ngăn ngừa những trường hợp thế tục hóa hàng
ngũ xuất gia. Ðó là thể hiện tinh thần của giới bổn và
biểu hiện hành tướng của người xuất gia như đức
Phật thường dạy: "Sống chế ngự với sự chế ngự
của giới bổn, đầy đủ oai nghi và chánh hạnh, thấy sợ
hãi trong những lỗi nhỏ nhặt." (Trung bộ kinh III).
III Tác Dụng Của
Giới
Từ: "Ðó là Như
Lai nói tóm tắt... trú ẩn cho mọi thứ công đức".
Thuyết minh tác dụng của giới có 3:
1). Giới đưa đến
giải thoát: "Giới thì chính thuận với căn bản giải
thoát nên Như Lai mệnh danh là Ba-La-Ðề-Mộc-Xoa. Nhờ giới
mà phát sinh thiền định và trí tuệ có năng lực hủy
diệt thống khổ".
Ba-la-đề-mộc-xoa:
một danh từ để gọi giới luật, dịch là biệt giải thoát.
Tác dụng của giới là giải thoát, đoạn trừ những bất
thiện của thân khẩu ý. Nguồn gốc của đau khổ là sự
trói buộc của phiền não. Giới là đình chỉ ác nghiệp nên
có tác dụng đưa đến giải thoát. Mặt khác giới phát
sinh thiền định và trí tuệ nên có năng lực hủy diệt
thống khổ. Vì vậy khi một người thọ trì giới mà cảm
thấy gò bó, sinh nhiều phiền não, không thư thái thanh
thản thì phải xem lại nội dung và phương pháp hành trì.
Giới bao giờ cũng đưa đến sự thanh thản thân tâm.
2). Giới duy trì thiện
pháp: "Ai giữ giới thì người đó có thiện pháp",
có một định nghĩa về giới nữa là tác thiện. Làm điều
thiện là một hình thức giữ giới. Hơn nữa khi đình chỉ
điều ác, ngăn ngừa điều ác thì bao hàm nghĩa tác thiện.
Về mặt tâm lý khi khởi tâm không làm điều ác nghĩa là tâm
đang hướng thượng, hướng thiện, những thiện chưa sinh
sẽ sinh, thiện pháp đã sinh được tăng trưởng. Thiện pháp
bao gồm ý niệm hướng thượng và hành vi, ngôn ngữ dẫn
đến lợi ích an vui.
3) Giới thành tựu công
đức: "không có tịnh giới thì mọi thứ công đức không
thể phát sinh". Công đức ở đây có nghĩa là những thành
quả do tu tập mà có. Những thành quả ấy gồm các cấp độ
thiền định như sơ thiền cho đến diệt thọ tưởng định,
hoặc đến chứng tam minh
Từ căn bản là giới
con đường tu tập đưọc thiết lập, nhưng giới không
phải chỉ là tuân thủ các giới điều mà còn bao gồm công
phu tu tập, kiểm soát các nhiễm ô của tâm lý, thành tựu
công đức là thực hiện viên mãn các bước tiếp theo. Kinh
toán số Mục Kiền Liên (Trung A-hàm 144) và kinh Ganaka
Moggallana (Trung bộ kinh 107) đưa ra đạo lộ tuần tự tu
tập như sau:
a) Thầy tỳ kheo giữ
gìn giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn, có oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm
trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các
học giới.
b) Thầy tỳ kheo hộ
trì các căn, khi mắt thấy sắc không nắm giữ tướng riêng,
không nắm giữ tướng chung, những nguyên nhân gì làm cho
tham ái, ưu bi khởi lên thì chế ngự đoạn trừ nguyên nhân
ấy , thinh, hương...cũng vậy.
c) Thầy tỳ kheo
tiết độ trong ăn uống, chân chánh quan sát ăn không để
vui đùa, đam mê, trang sức cho thân mà chỉ để khỏi
tổn hại thân, để giữ gìn phạm hạnh...
d) Thầy tỳ kheo được
huấn luyện chú tâm cảnh giác ban ngày cũng như ban đêm,
trong các hành động gột sạch tâm trí khỏi các chướng
ngại pháp.
e) Thầy tỳ kheo được
huấn luyện chánh niệm tỉnh giác trong mọi động tác
của thân thể khi đi đứng nằm ngồi...đều ý thức
việc mình đang làm.
g) Thầy tỳ kheo được
huấn luyện ngồi thiền ở một nơi thanh vắng, kiết già
lưng thẳng, an trú niệm trước mặt, gột sạch tâm trí
khỏi 5 triền cái...chứng sơ thiền cho đến tứ thiền...
Trong 6 bước đi
truyền thống gọi là đạo lộ tuần tự tu tập 4 bước đầu
được coi là bước giới luật, từ giới luật ấy công đức
được phát sinh tức là thiền và tuệ sinh.
IV. Chế ngự các
giác quan
Từ "các thầy tỳ
kheo đã ở trong tịnh giới... tàn diệt tất cả ": Ðây
là bước đi thứ hai trong đạo lộ tuần tự tu tập mà đức
Phâït đã dạy, gọi là hộ trì các căn. Hộ trì và bảo
vệ giữ gìn các căn là các giác quan, nghĩa là đừng để
cho 5 giác quan bị các đối tượng của nó dắt dẫn sai
khiến. Kinh văn dạy: "đã ở trong tịnh giới thì phải
chế ngự 5 thứ gíac quan". Vậy giữ giới với chế
ngự các giác quan là một. Ðối tượng của 5 giác quan có
5 thứ: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon và xúc êm
dịu. Ðây là các đối tượng hấp dẫn gọi là 5 dục
lạc, các đối tượng này làm thỏa mãn lạc thọ của giác
quan, đó là những gì mà chúng sinh tìm kiếm hướng đến.
Khi đã tham đắm dục lạc rồi thì tâm mình không còn là
của mình nữa, nó lệ thuộc vào thói quen hưởng thụ, khó
có thể cất bước lên cao được.
Giữ gìn giới bổn mà
cứ để cho 5 giác quan tự do dong ruổi theo trần cảnh thì
khả năng giữ giới rất mong manh, và tâm thức không dừng
lại ở phạm vi hưởng thụ dục lạc mà còn dẫn đến vô
số tội lỗi, tác họa vô cùng, khó mà dừng lại được,
ví như con ngựa hung hãn mà không có dây cương thì rất
nguy hiểm. Hộ trì các căn trong kinh tạng Nikàya nói khá rõ:
"khi mắt thấy sắc không nắm giữ tuớng riêng, không
nắm giữ tuớng chung, những nguyên nhân gì làm cho tham ái,
ưu bi khởi lên thì chế ngự và đoạn trừ nguyên nhân
ấy. Ðối với các đối tượng thinh, hương, vị, xúc cũng
như vậy".
Kinh văn lấy ví dụ
minh họa cho việc giữ gìn giác quan như "Như kẻ chăn
trâu cầm gậy mà coi giữ không cho (trâu) phóng túng phạm vào
lúa má của người. Hình ảnh thí dụ này rất hay, giữ gìn
giác quan ví như người chăn trâu, sự cảnh giác cao độ
ấy làm cho giác quan dần dần yên tỉnh. Thí dụ này có
thể đã gợi hứng cho các thiền gia sáng tác 10 bức tranh
chăn trâu nổi tiếng về sau.
Với cách thức cảnh
giác giữ gìn các giác quan như vậy, giác quan sẽ thuần
thục không có cơ hội để phóng túng chạy theo các đối tượng
dục lạc. Nếu có lúc phóng túng đi nữa thì với sự hộ
trì ấy sẽ làm cho giác quan trở lại thanh thản không lạc
lối lâu, như kinh văn nói: "Giả sử có phóng túng 5 giác
quan thì cũng không bao lâu ta sẽ thấy chúng tàn diệt tất
cả".
Bước thứ hai này
rất quan trọng, tập dừng lại các thói quen thuộc bản
chất hay hiện tượng. Trước hết về mặt oai nghi tế
hạnh sau đi dần vào tâm thức nội tại. Người xuất gia
sẽ có phong cách ổn định, tinh thần vững chãi, tâm lực
được củng cố. Do vậy tác dụng của giới được sâu
sắc hơn. Vị tỳ kheo đi tới mục tiêu tối hậu của mình
không có con đường nào khác là hộ trì các giác quan. Ðức
Phật dạy rõ trong kinh Pháp cú:
360: "Lành thay phòng
hộ mắt
Lành thay phòng hộ tai
Lành thay phòng hộ mũi
Lành thay phòng hộ lưỡi"
361: "Lành thay phòng
hộ thân
Lành thay phòng hộ lời
Lành thay phòng hộ ý
Lành thay phòng hộ tất cả
Tỳ kheo phòng tất cả
Thoát được mọi khổ đau ".
V. Chế Ngự Tâm
Ý
Từ "Năm thứ giác
quan... chiết phục tâm mình": Ðoạn này nói về chế
ngự tâm ý, năm thứ giác quan do tâm chủ động, giác quan
tự nó không có lỗi. Phần này vẫn là bước thứ hai của
hộ trì các căn, mối liên hệ giữa giác quan và tâm ý
chỉ là một mà thôi. Ðây là điểm đặc biệt của Phật
giáo. Trong kinh Căn Tu Tập đức Phật đã bác bỏ quan điểm
của Bà la môn Pasarìya, ông ta chủ trương rằng tu tập gíac
quan là không nên thấy sắc với mắt, không nên nghe tiếng
với tai. Ðúc Phật cho rằng như vậy là người mù người
điếc sẽ đạt kết quả tu tập giác quan. Quan điểm của
Phật là:" Này Anan, tỳ kheo khi mắt thấy sắc khởi lên
vừa ý, khởi lên không vừa ý, khởi lên vừa ý và không
vừa ý, chúng khởi lên như vậy vì chúng thuộc hữu vi nên
thô trọng. Nếu chúng không khởi lên như vậy thì đó là cái
an tịnh, cái thù diệu tức là xã tâm. Cho nên khi tâm khởi
lên vừa ý, không vừa ý hay vừa ý và không vừa ý đều
được đoạn diệt chỉ có xả tâm là tồn tại..."
(TBK IV căn tu tập 152).
Ðức Phật muốn nói
rằng khi mắt thấy đối tượng là sắc đẹp, tai nghe
tiếng hay...thì tâm sẽ khởi lên 3 thái độ nhận thức:
Một là vừa ý, hai là không vừa ý, ba là cũng vừa ý mà cũng
không vừa ý(có cả hai). Khi tâm khởi lên như vậy đối
với đối tượng là sắc hay thinh thì ta phải quán chiếu
rằng sự khởi lên 3 thái độ ấy là không đúng, là sự
vọng động, là sự thô trọng phàm phu. Nên quán chiếu để
thấy rằng nếu tâm không khởi lên 3 thái độ như trên thì
tâm an tĩnh thù diệu, cái đó là tâm xả. Nhờ quán chiếu
như vậy nên khi các niệm về 3 thái độ khởi lên thì sẽ
bị đoạn diệt ngay. Tu tập giác quan khác nhau là chỗ đó.
Khi mới tu tập phải ngăn ngừa các giác quan đi theo thói
quen thường tình là hướng đến các đối tượng lạc thú,
tránh xa các đối tượng không lạc thú. Khi tu tập giác
quan thuần thục rồi tức là phần thô hết, rồi phải
tiếp tục cảnh giác chế ngự tâm ý vi tế đối với các
đối tượng lạc thúù, phải biết rằng tâm mới là chủ
nhân của mọi thứ. Có người chủ quan cho rằng tu tâm
mới quan trọng còn giác quan không cần bận tâm, rồi họ
mặc cho giác quan nhìn ngắm, nghe ngóng, thưởng thức làm
vỡ thành trì của tâm. Tuy nhiên nếu chỉ lo chế ngự giác
quan mà quên rằng tâm mới là chủ thì trở nên thiển cận
cố chấp, tác dụng để sinh bị hạn chế.
Lúc Phật sắp Niết bàn
ngài Anan hỏi một số vấn đề cần thiết, trong đó có
vấn đề đối xử với phụ nữ phải như thế nào. Anan
hỏi:
- Bạch đức Thế Tôn
chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào?
- Này Anan chớ có nhìn
họ
- Bạch Thế Tôn nếu
phải nhìn họ thì phải làm như thế nào?
- Này Anan, chớ có nói
chuyện với họ
- Bạch Thế Tôn, nếu
phải nói chuyện với họ thì làm như thế nào?
- Này Anan, phải an trú
chánh niệm -- (Kinh ÐBNB. 644)
Ðức Phật dạy đừng
nhìn, đừng nói là để hộ trì giác quan đối với những
đệ tử sơ cơ, tâm lý chưa vững chãi, tu tập chưa thuần
thục, dễ bị ngoại cảnh thu hút. Ðức Phật dạy: phải
an trú chánh niệm chính là chế ngự tâm ý, tâm ý được
chế ngự thì việc nhìn hay nói với phụ nữ không có gì
phải lo.
Kinh văn đưa ra một
loạt ví dụ để nhấn mạnh đến cái tai họa của buông
thả tâm ý và sự quan trọng của chế ngự tâm ý như:
"Tâm còn đáng sợ hơn cả rắn độc, thú dữ, giặc thù,
lửa dữ bùng cháy tràn lan, cũng chưa đủ để ví dụ cho tâm".
Tóm lại nhấn mạnh
chế ngự tâm ý là vì:
- Tâm ý làm chủ của
các giác quan, chế ngự giác quan đi đôi với chế ngự tâm
ý thì mới có kết qủa.
- Tâm ý nếu không được
chế ngự thì sẽ tạo tác ác nghiệp "không khác gì voi
điên mà không có móc sắt, vượn khỉ mà được cây
rừng".
- Tâm ý được chế
ngự thì có sức mạnh để thành tựu các công đức . Kinh
văn nói:"chế ngự tâm ý lại một chỗ thì không việc
gì không thành".
Tu tập chế ngự tâm
ý là một quá trình nỗ lực, tự mình điều phục tâm ý
như kinh Pháp cú Phật dạy:
"Nỗ lực không
phóng dật
Tự điều khéo điều ngự
Bậc trí xây hòn đảo
Nước lụt khó ngập tràn "
(Tâm không phóng dật - 25)
VI. Tiết Chế Ăn
Uống
Từ "Các thầy tỳ
kheo thọ dụng đồ ăn thức uống... đến nỗi kiệt
sức": Tiết độ ăn uống là bước thứ 3 trong 6 bước
tu tập, vậy vấn đề ăn uống, dù rất bình thường nhưng
được coi là khó tu tập. Ăn uống là nhu cầu căn bản
của chúng sinh, không ăn hoặc ăn uống không hợp lý sẽ
đưa đến bệnh tật và chướng ngại tu tập. Ðối với
vấn đề ăn uống thường có hai thái độ:
1) Coi trọng ăn uống
là quan trọng, lấy ăn uống làm lạc thú và bị trói
buộc bởi ăn uống.
2) Coi ăn uống là
tầm thường, từ bỏ ăn uống hoặc như khổ hạnh ép xác,
làm thân thể hao mòn bệnh tật cũng đưa đến nguy hiểm.
Ðức Phật dạy trong
kinh văn: "Thọ dụng đồ ăn thức uống, hãy coi như
việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ
duy trì cơ thể khỏi đói khát". Coi ăn uống như là
thuốc trị bệnh là đúng cả nghĩa đen của nó, ăn uống
để nuôi dưỡng cơ thể, chữa bệnh đói khát. Ngon không
ham, dở không bỏ tức là đạt được khả năng hộ trì các
căn, tâm không bị ngon dở làm chi phối, giao động. Kinh
Ganaka Moggalla, Phật dạy :"Thầy tỳ kheo tiết độ trong
ăn uống, chân chánh quán sát ăn không để vui đùa, đam mê,
trang sức cho thân thể mà chỉ để khỏi tổn hại thân, để
giữ gìn phạm hạnh, ăn để diệt trừ cảm thọ cũ, không
cho cảm thọ mới khởi lên, nhờ đó mà sống không phạm
lỗi lầm và sống an ổn."(Trung bộ kinh). Thái độ
của người xuất gia đối với ăn uống rất rõ là ăn
uống vừa phải để khỏi hại thân và để tu tập phạm
hạnh, không vì ăn uống mà tham sân si khởi, chướng ngại
sự tu tập.
Ðể thực tập chế độ
ăn uống, luật tỳ ni nhật dụng đưa ra 5 điều quán niệm
trước khi ăn như sau:
1) Xét kể công lao
nhiều ít và ước lượng lý do của thực phẩm.
2) Nghĩ kỹ đức
hạnh của mình đủ hay thiếu để ứng thọ sự cúng dường
ấy.
3) Ðề phòng tâm lý,
tránh những tội lỗi mà tham sân si vẫn là chủ yếu.
4) Chính vì lấy
thực phâûm làm dược phẩm tốt để trị liệu thân hình
khô yếu
5) Vì thành đạo
nghiệp mà ứng thọ thực phẩm ấy.
Tu tập tiết độ trong
ăn uống không chỉ ngăn ngừa những phiền não và chướng
ngại cho bản thân mình mà còn vì lợi ích và niềm tin
của quần chúng đối với Giáo hội và Phật Pháp. Kinh văn
Ðức Phật dạy: "Như ong lấy hoa, chỉ lấy mùi vị mà
không tổn hương sắc...thọ dụng cúng phẩm của người
vừa khỏi đói khát, không được ham cầu nhiều, phá vỡ
thiện niệm của họ". Làm "tổn hương sắc"
hay "phá vỡ thiện niệm của họ" nghĩa là:
1) Do mình nhu cầu
nhiều, thí chủ phải cúng dường nhiều, làm thiệt hại
tài sản của họ, họ bị kiệt sức.
2) Vì đáp ứng nhu
cầu của mình, hạnh phúc gia đình bị tổn thương do
bất đồng quan điểm trong gia đình.
3) Do mình trở thành
gánh nặng dần dần họ mất niềm tin đối với đạo pháp
qua tư cách của thầy tỳ kheo.
Vì vậy kinh văn đưa
ra thêm một thí dụ: "phải biết lượng sức con trâu
của mình chịu đựng nhiều ít không dùng quá sức đến
nỗi kiệt lực". Ðồng nghĩa với đừng để thương
tổn sắc hương của hoa, tương đương ví dụ như ong lấy
hoa, kinh Pháp Cú Ðức Phật dạy:
"Như ong đến
với hoa
Không hoại sắc và hương
Che chở hoa lấy nhụy
Bậc thánh đi vào làng -- (kệ 49, Thích Minh Châu dịch)
Vấn đề ăn uống từ
xưa đến nay luôn là điều tạo nên phiền toái và ác
nghiệp. Người ta có thể vì ăn uống mà không từ một
thủ đoạn nào, có thể chà đạp lên hạnh phúc của kẻ
khác để thỏa mãn nhu cầu ăn uống của mình. Tục ngữù
nói: "Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng
lộn gan lên đầu" đó là lẽ thường tình của cuộc
đời.
Người xuất gia với
mục đích giải thoát không thể vướng bận vấn đề ăn
uống làm cho tham đắm hay làm cho chướng ngại sự nghiệp
của mình, việc ăn uống là nhu cầu như hít thở, nó đeo
đuổi suốt cuộc đời của mình, cho nên xử sự việc ăn
uống cho hợp đạo lý là giải quyết được một phần
trong công phu tu tập.
VII. Chú Tâm Cảnh
Giác
Từ "Các thầy tỳ
kheo, ban ngày thì nỗ lực... không khác gì cầm thú ":
Chú tâm cảnh giác là bước thứ 4 trong 6 bước tu tập
của đạo lộ tuần tự, sau khi có khả năng hộ trì các căn,
tiết độ trong ăn uống , tâm đạt được sự cảnh giác
cao, cần nỗ lực để tiếp tục duy trì sự cảnh giác
ấy. Kinh văn dạy: "ban ngày thì nỗ lực thực tập
thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, đầu đêm
cuối đêm cũng đừng phế bỏ, giữa đêm lại phải tụng
niệm để tự tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều
thiện". Sự cảnh giác chú tâm như vậy là khá chặt
chẽ. Tâm thức chúng ta đã tích lũy biết bao là phiền não,
ô nhiễm từ nhiều kiếp về trước, trí tuệ thì yếu
ớt, không thể một sớm một chiều mà có thể thanh tịnh
được. Những gì mà chúng ta được học qua kinh luận, qua
truyền đạt của các bậc giáo sư, qua đời sống thực
tế, chỉ mới tạo nên một thế lực nhỏ bé, giới hạn,
làm sao đủ sức ngăn ngừa được dòng chảy mạnh mẽ
của nghiệp lực vốn có từ xưa, làm sao mà nhanh chóng đoạn
trừ các tập khí tiềm ẩn vốn không có hình tướng, khó
thấy, khó nhận. Do đó để tạo cho mình một sức mạnh tương
đương với lực của phiền não, chúng ta phải tập trung tu
tập chú tâm cảnh giác thường xuyên ngày đêm. Tu hành
giống như chèo thuyền ngược dòng nước, không tiến ắt
phải lùi. Ðừng tạo cơ hội cho bất thiện pháp xuất
hiện thì chỉ có cách là nỗ lực mà thôi. Trong một ngày
24 giờ nếu ta chỉ tu tập vài giờ như tụng kinh 2 thời, công
phu, ngồi thiền 30 phút hoặc 1 giờ trước khi đi ngủ và sáng
sớm thức dậy thì không đủ sức đoạn trừ phiền não.
Kinh văn dạy rõ: ban ngày thì nỗ lực (suốt ngày), ban đêm
thì đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm cũng đừng phế bỏ,
nghĩa là tu hành thì đừng lo ngủ, ngủ vừa phải và ít thôi.
Kinh Tăng Chi đức Phật có đề cập đến 5 hạng người
ngủ ít thức nhiều trong đó hạng thứ 5 là: "vị tỳ
kheo thao thức đến ly hệ phược (visamyogàdhippàyo) ban đêm
ngủ ít thức nhiều " (Tăng chi II.Tr.164). Thao thức đến
ly hệ phược tức là chú tâm cảnh gíác để đoạn trừ các
lậu hoặc.
Dựa trên cơ sở kinh
Di Giáo và một số kinh khác mà các tổ sư về sau đã chia
thời khóa tu tập thành 6 thời gọi là "trú dạ lục
thời" gồm ban ngày: buổi sáng, buổi trưa, buổi chiều
; ban đêm gồm đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm. Ngài Trần
Thái Tông cũng dựa vào 6 thời này mà soạn nghi thức tu
tập sám hối lục căn trong tác phẩm Khóa Hư Lục rất có
giá trị về mặt tu tập.
Bước tu tập này kinh
Ganaka Moggallana dạy: "Thầy tỳ kheo được huấn luyện
chú tâm cảnh giác ban ngày cũng như ban đêm, trong các hành
động gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp".
Kinh Pháp Cú kệ 297 cũng dạy:
" Ðệ tử Gotama
Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm
Thường tưởng niệm chánh pháp"
Thường tưởng niệm
chánh pháp là làm cho tà pháp không có cơ hội phát triển,
thường tưởng niệm thì phải ít ngủ nghỉ, dành thì giờ
nhiều hơn để tu tập, kinh văn dạy: "phiền não ngủ
trong tâm như rắn hổ mang ngủ trong nhà, phải lo dùng móc
sắc giữ giới cấp tốc kéo nó ra, rắn ngủ ra rồi mới nên
yên tâm ngủ nghỉ. Phiền não ngủ trong tâm là những
phiền não tùy miên rất khó đoạn trừ vì đó là tập khí
tiềm ẩn huân tập lâu đời, vi tế khó biết. Nhờ giữ
giới tức là nhờ chú tâm cảnh giác ngày cũng như đêm mà
kéo những phiền não ấy ra khỏi tâm thức.
Vị tỳ kheo luôn luôn
tự xét mình có xứng đáng là tỳ kheo hay không bằng cách
quán sát phiền não cấu uế còn nhiều hay ít. Nếu thấy còn
nhiều thì phải biết hổ thẹn, tự giác và nỗ lực hơn
không thể yên tâm ham ngủ nghỉ hoặc lười biếng qua ngày.
Nếu biết tự giác hổ thẹn như vậy thì mới đủ năng
lực duy trì và tăng trưởng thiện pháp, tâm lý hổ thẹn là
một loại tâm lý thiện có tác dụng kích thích sự nỗ
lực nên kinh văn nói: "có hổ thẹn là có thiện pháp".
Tóm lại chú tâm cảnh
giác là sự cảnh giác thường xuyên đối với hoạt động
của thân khẩu ý, ngăn ngừa các bất thiện pháp, chế
ngự sự vọng động ô nhiễm của tâm lý. Ðến trình độ
này tâm thức khá thuần thục, chúng vẫn ở trong phạm vi
ảnh hưởng và tác dụng của giới, bắt đầu đi sâu hơn
vào tâm lý ô nhiễm vi tế để dọn đường cho định tuệ
sinh khởi.
VIII. Tu Tập Hạnh
Nhẫn Nhục
Từ "Các thầy tỳ
kheo nếu ai cắt xả thân thể... là điều không thích
hợp": Ðoạn này kinh dạy tu tập hạnh nhẫn nhục đối
với nghịch cảnh nghịch ý. Tu tập nhẫn nhục là để đoạn
trừ sự bộc phát sân tâm, cảnh giác ngăn ngừa tội lỗi
khổ thọ và giao động của tâm làm tán thất công phu tu
tập. Mặt khác luyện cho tâm trầm tĩnh vững chãi, và cũng
để tu tập từ, bi, hỷ, xả, chuẩn bị tâm đi vào định
tuệ, sự tu tập nhẫn nhục theo yêu cầu của kinh rất cao,
Phật dạy: "nếu ai cắt xả các thầy ra từng đốt, các
thầy cũng phải tự kiềm chế thân mình đừng cho giận
dữ, lại phải giữ lấy miệng lưỡi đừng để phát ra
lời tiếng không tốt. Tâm giận giữ nổi lên là tự hại
đaọ nghiệp" (kinh Di giáo). Sự nhẫn nhục như vậy là
biểu hiện sức mạnh chế ngự nội tâm của người tu
tập theo giáo pháp của Ðức Phật. Tương tự kinh ví dụ cái
cưa trong Trung Bộ kinh I, cũng dạy: "Như những kẻ đạo
tặc dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay cưa chân, dầu vậy nếu
một ai ở đây khởi ý nhiễm loạn, người ấy không phải
là người thực hành giáo pháp của ta. Các ông phải học
tập như sau: chúng ta sẽ giữ tâm chúng ta không biêùn
nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng
ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm
không sân hận. "Thông thường chúng ta sống theo phản
ứng tự nhiên (phản ứng động vật) ai mắng ta ta mắng
lại, ai đánh ta ta đánh lại, do đó cuộc đời của ta luôn
luôn sống trong trạng thái ba động của đấu tranh, của
khốn khổ. Một người có trí tuệ sẽ chọn cách sống có
kiềm chế, tự chủ hơn và trầm tĩnh hơn. Có người nghĩ
rằng nhẫn nhục là thái độ hèn nhát nhưng theo qui luật tâm
lý thì ngược lại hèn nhát, thiếu bản lĩnh mới manh động
không nhẫn nhục nổi. Nhẫn nhục biểu hiện sức mạnh
của ý chí, sự vững chắc của nội tâm, đó cũng là đức
tính của một sa môn. Kinh văn dạy: "Thực hành đức
nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức
mạnh". Kinh Tăng Chi khi nói đến sức mạnh có 8 loại:
1) sức mạnh của
trẻ thơ là tiếng khóc
2) sức mạnh của đàn bà là phẫn nộ
3) sức mạnh của người ăn trộm là vũ khí
4) sức mạnh của vua chúa là quyền uy
5) sức mạnh của kẻ ngu si là áp đảo
6) sức mạnh của bật hiền trí là cảm hóa
7) sức mạnh của ngưòi đa văn là thẩm sát
8) sức mạnh của sa môn là nhẫn nhục
Sự nóng giận bao giờ
cũng đưa đến tai hại cho thân vật lý, tâm lý, tình cảm
và hại cho xã hội. Một xã hội mà con người không được
giáo dục và rèn luyện tính nhẫn nhục, sức tự chủ yếu
dễ dần đến phạm tội, người ta có thể giết nhau, hãm
hại nhau, phản bội nhau vì những lý do rất nhỏ bé, như
một lời nói xúc phạm chẳng hạn. Tu tập hạnh nhẫn
nhục không những chỉ kiềm chế giữ gìn tâm thức không
cho khởi lên sân hận khi bị người chỉ trích hay chửi
mắng mà còn tu tập tâm bất động khi người ta làm tổn
thương đến thân thể của mình. Ðó không phải là điều
dễ làm vì vậy mà nói nhẫn nhục là sức mạnh.
Tâm sân hận rất nguy
hiểm, nó có sức mạnh tàn phá tất cả mọi thiện pháp, nó
vượt qua mọi giới hạn như khi lòng sân khởi lên con có
thể giết cha, trò có thể hại thầy, vì vậy mà kinh văn
đã nói: "giặc cướp công đức không gì hơn giận
dữ". Và cổ đức cũng đã nói: "một niệm sân
khởi lên là trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở. Vì
vậy mà công hạnh tu tập nhẫn nhục được coi là đệ
nhất đối với các công hạnh khác, vào chùa đầu tiên là
phải biết tu tập kham nhẫn đối với hoàn cảnh vật
chất và tình cảm thiếu thốn, rồi phải kham nhẫn đối
với những răn đe, chỉ trích oan uổng...dần dần người
xuất gia trở nên vững vàng để tiến xa hơn, cho nên giới
kinh dạy
"Ðức tính nhẫn nhục là đạo
bậc nhất
Phật nói vô vi là pháp tối thượng
Là người xuất gia mà bức não người
Thì không được gọi là bậc sa môn" -- (Tỳ kheo giới,
Trí Quang dịch)
Ðể giữ gìn tâm niệm
khỏi bị quấy động và ô nhiễm cũng như giữ gìn phong cách
của một người xuất gia, khá nhiều điều giới được đặt
ra để đối phó với tâm sân hận thiếu sự tự chủ kiềm
chế. Trong tỳ kheo giới, 13 giới tăng tàng có 2 giới là
thứ 8 và thứ 9 vì giận mà vu khống và phỉ báng, vì giận
mà xuyên tạc phỉ báng. 90 giới Ba dật đề có 8 giới như
điều thứ 2 chửi mắng các thành phần xã hội, giới 13 ghét
mắng tri sự, giới 17 vì giận giữ lôi tỳ kheo khác ra khỏi
phòng, giới 78, 79 vì giận giữ mà đánh và tát người khác,
giới 80 vì giận mà vu khống. Trong 100 pháp chúng học cũng nêu
lên hàng loạt ngăn ngừa tương tự.
Như vâïy tu tập nhẫn
nhục vẫn nằm trong phần giới, theo tôi thuộc về đạo lộ
tu tập tuần tự thứ 4 là chú tâm cảnh giác.
Tu tập hạnh nhẫn nhục
như kinh văn dạy là hoàn hảo mà thuật ngữ trong lục độ
gọi là nhẫn nhục Ba la mật. Chúng ta không chỉ không giận
tức người chửi mắng hãm hại mình mà còn phải tu tập để
đạt được trình độ hoàn hảo hơn là tiếp nhận sự chỉ
trích chửi mắng của người khác một cách hoan hỷ như
uống nước cam lộ: "kẻ nào không thể tiếp nhận cái
độc nhục mạ một cách hoan hỷ như uống nước cam lộ kẻ
ấy không thể được ca tụng là người nhập đạo có trí"
(Kinh Di Giáo).
Sự tu tập hay công phu
tu hành nhiều hay ít, cao hay thấp của người xuất gia và
những người tu tập theo con đường của đạo Phật được
đánh giá qua trình độ kham nhẫn này. Nhẫn nhục là đức
hạnh tiêu biểu của người xuât gia, nếu không có hạnh
nhẫn nhục, phẩm hạnh của người xuất gia không gọi là
vẹn toàn, như lời kinh kết thúc phần nhẫn nhục như sau:
"Người thế gian hưởng
thụ dục lạc, không phải là kẻ hành đạo, không có phương
pháp để tự kiềm chế, nên họ giận dữ thì còn có thể
tha thứ được. Người xuất gia hành đạo là kẻ loại bỏ
dục vọng vậy mà giận dữ thì thật không đáng có, không
khác gì giữa bầu trời mây trong mát mà sấm sét lóe lửa là
điều không thích hợp".
Lời dạy thiết tha và
chí lý vô cùng!
IX. Ðoạn Trừ Tâm
Lý Kiêu Ngạo và Dua Nịnh
Từ "Các thầy tỳ
kheo hãy tự xoa đầu lấy chất trực làm căn bản": Ðoạn
kinh này về tu tập đoạn trừ tâm lý kiêu ngạo và dua
nịnh. Ðây là những loại tâm lý làm ô nhiễm tâm và chướng
ngại cho lộ trình tu tập:
1. Tâm kiêu ngạo: là tâm
lý phiền não phụ thuộc của tâm lý mạn, là tâm lý thường
tình của con người. Ðối với người xuất gia, nó là một
chướng ngại lớn. Kinh văn dạy: "các thầy tỳ kheo, hãy
tự xoa đầu mình, đã bỏ sự trang sức và đồ tốt đẹp,
mình mặc áo hoại sắc, tay cầm đồ thích ứng, khất thực
để sống, tự thấy như vậy mà kiêu ngạo còn nổi lên thì
phải cấp tốc tỏa chiết". Người đời thường có tâm
lý kiêu ngạo khi họ giàu có về vật chất, hoặc họ có địa
vị cao trong xã hội, hoặc họ là người có nhan sắc đẹp
đẽ. Trong khi đó người xuất gia từ bỏ tất cả tiền tài,
danh vọng, sắc đẹp...đáng lẽ ra không có gì để kiêu
ngạo. Kinh dạy "tự xoa đầu mình" là để ý thức
điều đó, là người đã buông xả những gì thuộc về thế
tục, mặc áo hoại sắc, xin thực phẩm mà sống, mà tu có gì
đáng kiêu ngạo đâu ?! Tuy nhiên thực tế nhiều người
xuất gia cũng có điều kiện để kiêu ngạo:
a) Người xuất gia
nhờ phước báu được quần chúng ái mộ nên cúng dường
vật chất đầy đủ, ăn mặc, phương tiện đi lại, nhà
ở...nên ỷ lại vật chất mà sinh kiêu ngạo.
b) Người xuất gia vì
được quần chúng tôn kính coi là bậc đạo sư, là Tăng
bảo nên họ luôn luôn cung kính nghe lời, nên sinh tâm kiêu
ngạo.
c) Người xuất gia có
học, có trí thức có bằng cấp cao viết sách hay, thuyết
pháp giỏi, chức vị lớn trong giáo hội, được nổi
tiếng...nên sinh tâm kiêu ngạo.
d) Người xuất gia có
tu tập, có chút sở đắc, có chút ít công phu sinh khen mình
chê người mà kiêu ngạo.
Nếu không cảnh giác chú
tâm ngăn ngừa tâm bất thiện khởi lên thì đôi khi chỉ
một lý do nhỏ nhặt cũng dễ khởi tâm kiêu ngạo (chẳng
hạn đẹp trai một chút ). Người tu hành đã dựa vào một
thế lực nào đó; tiền tài, danh vọng, tài năng...thì sẽ vướng
vào kiêu ngạo. Có người sự kiêu ngạo bộc lộ một cách rõ
rệt, có người thì kiêu ngạo hoạt động thầm kín hơn,
tất cả đều đem đến ô nhiễm tâm và chướng ngại con
đường giải thoát. Kinh Pháp Cú đức Phật dạy:
"Việc đáng làm không
làm
Không đáng làm lại làm
Người ngạo mạn phóng dật
Lậu hoặc ắt tăng trưởng (PC kệ 292)
Phải chú tâm cảmh giác
chế ngự tâm kiêu ngạo đường đạo mới khai thông, ngược
lại tâm kiêu ngạo là khiêm tốn, đó là tâm người tu hành.
Người đời họ có đủ các điều kiện để kiêu ngạo,
nếu họ giữ tâm kiêu ngạo thì sự nghiệp của họ không
thể lâu bền, phải biết khiêm tốn thì mới tồn tại lâu dài.
Huống gì người xuất gia với mục đích giải thoát, về
mặt thế tục đã xả bỏ không có vật gì đáng kể, về
mặt tâm linh phải vượt thoát phiền não, mà mang nặng tâm
kiêu ngạo thì thật không đáng.
2. Tâm dua nịnh: là tâm
lý phiền não phụ thuộc của tham và si, là loại tâm lý ô
nhiễm làm tâm hồn xu hướng thế tục. Tâm dua nịnh, một khía
cạnh nào đó thì đi đôi với tâm kiêu ngạo, người kiêu
ngạo với kẻ ngang hay dưới mình thì sẽ dua nịnh người trên
mình, người hơn mình. Người có tâm dua nịnh thì nói hay làm
chiều theo ý người khác, tâng bốc họ quá đáng để mưu
cầu lợi lộc nào đó, với tâm dua nịnh họ không nói
thật, nói thẳng mà nói quanh co xoa dịu bản ngã kẻ khác.
Kinh văn Phật dạy: "tâm lý dua nịnh quanh co trái ngược
đạo pháp, thế nên các thầy phải chất trực tâm mình.
Phải ý thức dua nịnh quanh co chỉ để dối trá, mà người
nhập đạo thì không thể như vậy." Dua nịnh khác với
ca ngợi tán dương người khác, trong khi ca ngợi tán dương
một sự thật ưu việt của ai đó thì dua nịnh là những
lời tâng bốc láo tóet có mục đích mờ ám. Ðó không phải
là đức tính tốt của người xuất gia. Kinh Tăng Chi Ðức
Phật dạy:"Mục đích của đời sống phạm hạnh không
phải vì lừa dối quần chúng, mơn trớn quần chúng, không vì
mục đích lợi dưỡng, danh vọng, cung kính...mà vì mục đích
chế ngự, đoạn tận, ly tham, đoạn diệt..."(Tăng chi I
Tr. 377).
Ðể giữ cho tâm mình
được thanh thoát, thẳng thắn phù hợp với đức tính giải
thoát, và cũng để giữ gìn tư cách của một vị tỳ kheo thì
phải như kinh dạy: "ngay thẳng tâm mình, lấy đức tính
chất trực làm căn bản" và trong Trung Bộ kinh, định nghĩa
về Tăng rằng: "Ðệ tử của Thế Tôn đủ các đức tính
diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh và chánh hạnh"
(kinh Ví dụ tấm vải).
Tóm lại kiêu ngạo và
dua nịnh là những tâm lý ô nhiễm đều có tác dụng làm cho
tâm hoen ố, rối loạn, chướng ngại con đường giải thoát,
không xứng đáng cho tư cách phẩm chất của một vị tỳ
kheo.
X. Tu Tập Hạnh Ít
Ham Muốn và Biết Vừa Ðủ
Từ "Các thầy tỳ
kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều... đó là hạnh biết
vừa đủ": Ðoạn này nói về tu tập hạnh ít ham muốn và
biết vừa đủ, cả hai đức tính này có liên quan với nhau,
cái này hỗ trợ cho cái kia.
Người xuất gia phải đoạn
trừ nguyên nhân của đau khổ, nguyên nhân căn bản chính là
tham sân si. Ðó là những phiền não tùy miên rất khó nắm
bắt mà đoạn diệt. Tuy nhiên những biểu hiện trên mặt tâm
lý thì khá rõ, có thể hạn chế và đoạn trừ chúng ,
những ham muốn, những dục vọng luôn luôn khuấy động tâm
tư, làm ô nhiễm tâm và chướng ngại sự tu tập. Vì vậy tu
tập hạnh ít ham muốn và biết vừa đủ là để giảm dần
tác dụng của tham tùy miên, sân tùy miên và si tùy miên.
1) Hạnh ít ham muốn
Kinh văn dạy: "các
thầy tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều, thì nhiều sự
cầu lợi nên khổ não cũng nhiều". Ham muốn nhiều tức
là lòng tham tăng trưởng, ham muốn nhiều thì khổ não cũng
nhiều, điều này rất thực tế. Ðối tượng của ham muốn
là 5 dục: sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon và xúc êm
dịu. Ðây là những đối tượng mong cầu của thế tục,
những ham muốn lạc thúù luôn đi kèm với đau khổ.
Kinh Ðại Khổ Uẩn Ðức
Phật dạy: đối với các dục phải biết rõ 3 khía cạnh
của nó: vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly. Vị ngọt là
dựa vào 5 dục sự khoái cảm, thích thú khởi lên, sự nguy
hiểm là mặt trái của sự khoái cảm, thích thú ấy gồm có:
1. Muốn có 5 dục
phải tìm kiếm, lao động vất vả phải đấu tranh với con
người đồng loại và thiên nhiên, đôi khi bị bệnh hoạn,
thương tật và chết chóc.
2. Vất vả như vậy mà
không phải lúc nào cũng toại nguyện, có khi chỉ gánh lấy
đau khổ mà không chút lợi lộc nào.
3. Nếu có tìm kiếm
được đi nữa thì phải lo giữ gìn, nó trở thành đầu
mối của tranh chấp, tranh đoạt giữa cha con, anh em, vợ
chồng, tình cảm đạo lý tan tác.
4. Rồi bị trộm cắp,
cướp giật, lường gạt, hãm hại...
Sự xuất ly là nhiếp
phục được tham ái đối với các dục, là sự giải thoát
khỏi sự trói buộc của các dục.
Có ai hưởng thụ 5 dục
mà chỉ thuần sung sướng, không có đau khổ đâu?! Ðiều
tất yếu là càng ham muốn nhiều càng khổ nhiều. Do vậy
Phật dạy:
"Dục ái sinh sầu
ưu
Dục ái sinh sợ hãi
Ai thoát khỏi ái dục
Không sầu đâu sợ hãi" (PC kệ 215)
Sự khổ của ham muốn là
không bao giờ thỏa mãn càng có nhiều càng ham muốn nhiều,
tục ngữ có nói:"lòng tham không đáy". Sự khao khát
sẽ không cùng tận, sẽ dẫn dắt chúng ta đi vào hố thẳm
khổ đau. Lòng ham muốn được kiềm chế, tâm hồn sẽ thanh
thản và giải thoát. Khi con người bị nô lệ cho lạc thú giác
quan thì các thiện pháp không thể tăng trưởng, những tiến
bộ tâm linh sẽ bị dừng lại, tâm thức mờ tối, cho nên
hộ trì các căn, chú tâm cảnh giác, là pháp tu tập để ngăn
ngừa và đoạn trừ tâm lý ham muốn nhiều, kinh văn dạy:
"Sự ít ham muốn cũng đã phải thực tập, huống chi sự
ấy còn đem lại đủ các công đức".
Người tu tập hạnh ít
ham muốn là đạt được sự bình an thanh thản, dễ dàng đạt
được ly tham, đoạn diệt, Niết bàn như kinh dạy:
"thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không
lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thư thái, không bao giờ
có cảm giác thiếu thốn, có ít ham muốn là có Niết bàn."
2) Hạnh biết vừa đủ:
Sự khác nhau giữa hạnh
ít ham muốn và hạnh biết vừa đủ ở chỗ: "ít ham
muốn là siêu thoát cái chưa phải của mình, biết vừa đủ
là siêu thoát đối với cái đã là của mình" (Trí Quang,
dịch giải kinh Di Giáo)
Kinh văn Phật dạy:
"Các thầy tỳ kheo, muốn giải thoát khổ não thì các
thầy hãy cứu xét sự biết vừa đủ, chính sự biết vừa
đủ là giàu sang, vui thú và yên ổn". Thông thưòng nhu
cầu con người có 2 loại: nhu cầu sinh tồn và nhu cầu hưởng
thụ. Nhu cầu sinh tồn là những nhu cầu thiết yếu như ăn,
mặc, ngủ nghỉ. Nhu cầu hưởng thụ là tìm kiếm lạc thú.
Ðối tượng của nhu cầu hưởng thụ là 5 dục lạc như đã
nói ở phần ít ham muốn. Ơû đây đề cập đến nhu cầu
sinh tồn mình cần phải biết vừa đủ.
Người xuất gia có nhu
cầu thực phẩm, y áo, sàng tọa và dược phẩm để sống mà
tu tập phạm hạnh, không phải để thỏa mãn dục vọng. Ðối
với các nhu cầu sinh tồn này nếu người xuất gia không chú
tâm cảnh giác thì có khả năng biến thành nhu cầu hưởng
thụ như muốn ăn nhiều, ăn ngon, muốn mặc sang, mặc đẹp...Tâm
lý biết đủ là thỏa mãn với cái đang có không mong cầu gì
hơn, cái khổ bao giờ cũng gắn liền với cảm giác không
thỏa mãn, không vừa ý. Nếu ta thỏa mãn ta vừa ý thì hết
khổ. Như kinh văn Phật dạy: "Biết vừa đủ thì nằm trên
đất cũng thấy vui thích, không biết vừa đủ dù ở thiên
đường cũng không vừa ý". Người không biết đủ thì có
bao nhiêu cũng cho là thiếu nên kinh gọi là "tuy giàu mà
nghèo". Ngược lại thì "tuy nghèo mà giàu", nghèo
vì cảm giác thiếu thốn, giàu vì cảm giác thỏa mãn, vừa
ý. Nguyễn Công Trứ, một nhà nho cũng nói: "biết đủ là
đủ, đợi đủ bao giờ mới đủ".
Kinh Tăng Chi đức Phật
dạy: "Này các tỳ kheo, người biết đủ với các loại
(y phục, thực phẩm, sàng tọa, dược phẩm) ta tuyên bố
rằng đây là một trong những phần của sa môn hạnh"(TC
I Tr. 397).
"Này các tỳ kheo có
4 truyền thống là tỳ kheo biết đủ với bất cứ loại y nào,
biết đủ với bất cứ đồ ăn khất thực nào, biết đủ
với bất cứ loại sàng tọa nào, tỳ kheo ưa thích tu tập,
ưa thích đoạn tận...đối với các nhu cầu y phục, thực
phẩm, sàng tọa...nếu không có được thì không có lo âu
tiếc nuối, nếu có được thì không tham đắm. Thấy sự
nguy hiểm và với trí tuệ thấy sự xuất ly...đây gọi là
tỳ kheo đứng trên thánh truyền thống kỳ cựu "được
nhận biết là tối sơ" (TC I Tr. 380).
Ngày nay nhu cầu của người
xuất gia không chỉ 4 thứ y phục, thực phẩm, sàng tọa và dược
phẩm như xưa, có nhiều nhu cầu hiện đại hơn như nhà ở
phương tiện đi lại máy móc phục vụ nhu cầu tri thức... nhưng
vẫn trên cơ sở là nhu cầu thiết yếu và cần phải tu tập
hạnh biết đủ, có không tham đắm, không có không lo âu
tiếc nuối. Như vậy người xuất gia mới có thể giữ tâm
an ổn, thanh thản và giải thoát, như đức Phật dạy trong
kinh pháp cú:
"Không bệnh lợi
tối thượng
Biết đủ tiền tối thượng
Thành kính đối với nhau là bà con tối thượng
Niết bàn lạc tối thượng" (PC. Kệ 204)
XI. Tu Tập Hạnh
Viễn Ly
Từ "Các thầy tỳ
kheo, muốn cầu yên tĩnh... đó là hạnh viễn ly": Ðoạn
này nói về tu tập hạnh viễn ly, nghĩa là xa lánh nơi ồn ào,
náo động để chuyên tâm tu tập mới mong đạt được giải
thoát. Kinh văn Ðức Phật dạy: "muốn cầu yên tỉnh vô
vi và an lạc, thì các thầy phải thoát ly mọi sự ồn ào và
bối rối, ở đơn độc và ở một cách thư thái".
Ðời sống của người
xuất gia thoát ly thế tục rất cần sự yên tỉnh và ít công
việc, dành thì giờ tu tập và quán chiếu tự tâm, thấu
suốt bản chất cuộc sống. Vì vậy thường ở nơi núi non
thanh vắng, gần gũi với thiên nhiên, cách ly xóm làng rất phù
hợp với đời sống xuất gia.
Người xuất gia mà bị
ngoại cảnh chi phối thì khó chú tâm tu tập, môi trường yên
tĩnh của núi rừng, khung cảnh thanh vắng hổ trợ rất
nhiều cho người chuyên tâm tu niệm, tuy nhiên nếu đồ chúng
đông đảo thì cũng có những phiền não hệ lụy đến công
việc, bởi sự sống chung và va chạm. Như vậy nơi yên tĩnh
mà vẫn chưa yên ổn, vì vậy kinh văn dạy: "các thầy hãy
thoát ly đồ chúng của mình và đồ chúng của người, ở
đơn độc, thư thái và thanh vắng, dùng tư duy tu mà cắt đứt
gốc rễ của đau khổ". Dùng tư duy hướng đến đoạn
trừ phiền não thì phải có đời sống độc cư, hoặc dành
nhiều thì giờ cho riêng mình để tư duy tu. Ðồ chúng nhiều
thì bị ảnh hưởng bởi cái vui cái buồn của đồ chúng không
dễ gì mà không động tâm, như kinh dạy: "Nếu thích đồ
chúng thì sẽ bị đồ chúng quấy phá như cây đại thọ mà
cả bầy chim chóc tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy".
Tu tập hạnh viễn ly,
mới nhìn qua có vẻ như trốn đời tiêu cực, lo cho mình,
thật ra, đối với một người xuất gia tâm lực, trí lực còn
yếu thì phải lo tu tập để tăng trưởng đạo lực, nếu chưa
đủ năng lực mà lo lăng xăng cứu độ chúng sinh hay hoạt động
Phật sự, bề ngoài thì có vẻ tích cực nhưng nội dung thì
rối loạn nhiều hơn. Chúng sinh đau khổ không phải vì
thiếu các bậc đạo sư, mà vì quá nhiều đạo sư chưa đủ
năng lực, khả năng tu tập còn kém, phiền não còn nhiều mà
sống xô bồ, đồ chúng đông đảo, công việc bề bộn, không
còn thì giờ để tu niệm nên phiền não tăng trưởng, mục
đích của mình không đạt. Bề ngoài là một tỳ kheo mà bên
trong thì trống rỗng hoang vu, không có chất liệu của một
tỳ kheo. Ðể giải quyết việc tu song hành với hoạt động
Phật sự, các thầy thời nay tổ chức nhập thất có thời
hạn hay định kỳ để nuôi dưỡng đạo lực là một giải
quyết tạm ổn. Giải quyết tận gốc rễ vẫn là bớt
việc, dành nhiều thời gian sống viễn ly, tu tập thiền qúan,
và chánh niệm trong công việc hằng ngày. Nếu người xuất
gia tu tập mà không nếm được vị ngọt của chánh pháp thường
được gọi là pháp vị hay pháp hỷ, pháp lạc thì chắc
chắn sẽ thoái thất công đức. Kinh Pháp Cú Ðức Phật
dạy:
"Ðã nếm vị độc
cư
Ðược hưởng vị nhàn tịnh
Không sợ hãi không ác
Nếm được vị pháp hỷ" (PC. Kệ 205)
Có người thích đông đảo
quần chúng, đông đảo đệ tử coi như đó là thành công
trong sự nghiệp tu hành của mình. Ðông đảo quần chúng và
đệ tử cũng có 2 mặt lợi và hại, cái mặt lợi là tác
dụng độ sinh của mình sẽ đem đến lợi ích cho nhiều người,
nếu mình đủ đức độ và tài năng, mình có khả năng
giải thoát tự tại trong lòng cuộc đơì, gần bùn mà chẳng
hôi tanh mùi bùn như hoa sen, hoặc như Phật dạy:
"Vui thay chúng ta
sống
Không rộn giữa rộn ràng
Giữa những người rộn ràng
Ta sống không rộn ràng" (PC. Kệ 199)
Còn mặt tai hại thì như
kinh văn đã nói: "Như cây đại thọ mà có bầy chim chóc
tập hợp lại thì vẫn bị cái họa khô gãy". Có những
hội chúng tốt đẹp giúp ta tu tập thẳng tiến, có những
hội chúng kém cỏi làm cho ta thoái tâm Bồ đề. Ðức Phật
dạy: "Này các tỳ kheo, có những hội chúng nông nổi,
hội chúng đấu tranh, hội chúng không thù thắng, hội chúng
cặn bã...nhưng cũng có những hội chúng thâm sâu, hội chúng
hòa hợp, hội chúng thù thắng và hội chúng tinh hoa" (TC
I Tr. 84).
Sống độc cư cũng có
mặt trái của nó, nếu thầy tỳ kheo không nhiệt tâm tinh
cần tu tập đoạn trừ lậu hoặc, không sử dụng khả năng
"tư duy tu" mà cắt đức gốc rể khổ đau thì sống
độc cư là môi trường tốt cho sự sa đọa vì không ai
kiểm soát, kiềm chế để thúc liểm thân tâm.
Trong thế giới hiện đại
chúng ta không thể ẩn tu trong rừng sâu hoặc đóng cửa không
liên hệ với thế giới bên ngoài. Ðiều cần thiết là
viễn ly tâm lý ham thích quần chúng, ham thích đệ tử, phải
biết rõ sự phiền toái và chướng ngại của đồ chúng đối
với con đường tu tập, sống trong đồ chúng mà thoát ly đồ
chúng, có vậy mới có thể thành đạt những gì cần thành
đạt. Ðức Phật dạy: "Này các tỳ kheo, tỳ kheo nào ưa
thích hội chúng, ưa thích đồ chúng thì tỳ kheo ấy sẽ không
hoan hỷ để sống một mình, sống viễn ly. Do vậy vị ấy
không nắm giữ tướng của tâm, sẽ không làm viên mãn chánh
kiến, không làm viên mãn chánh định, sẽ không từ bỏ các
kiết sử và sẽ không chứng ngộ niết bàn". (TC II Tr.
408).
Tóm lại sống viễn ly và
tu tập hạnh viễn ly là giới hạn sự tác động của hoàn
cảnh làm bất lợi và chướng ngại cho sự tu tập đoạn
trừ phiền não, lậu hoặc. Mục đích là để hỗ trợ cho công
phu tu tập và để sớm hoàn thành chí nguyện xuất gia.
Tổng kết phần giới
học đến đây là hoàn tất. Như vậy giới có 4 bước: thọ
trì giới bổn, hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống và
chú tâm cảnh giác. Tác dụng của giới như vậy là rất căn
bản cho tu tập thiền định và phát triển trí tuệ. Phần
thọ trì giới bổn là phần bề ngoài, tác dụng chủ yếu
của giới là ngăn ngừa tội lỗi và nhiễm ô tâm thức,
huấn luyện thân và tâm trở nên thuần thục, trong sạch, nhu
nhuyến là phần cốt lõi của giới. Vậy trong giới đã có
tiềm tàng định và tuệ. Ðức Phật dạy: "Này các tỳ
kheo, thực hành con đường không có lỗi lầm và để có căn
bản thẳng tấn để đoạn diệt các lậu hoặc. Con đường
đó là hộ trì các căn, tiết độ trong ăn uống, chú tâm
cảnh giác" (TC I Tr. 125).
Kinh Di Giáo đã xây
dựng phần giới phù hợp với truyền thống và phù hợp
với lộ trình tu tập tuần tự của tâm lý và khách quan. Chúng
ta sẽ nghiên cứu những bước tiếp theo để thấy rõ hơn
mối liên hệ Giới, Ðịnh, Tuệ và mục tiêu giải thoát.
-ooOoo-