X. PHÁP HỘI VĂN THÙ SƯ LỢI PHỔ MÔN THỨ MƯỜI
(Hán Bộ Trọn Quyển Thứ 29)
                     Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
                     Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Như vậy, tôi nghe một lúc Ðức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật câu hội với tám trăm đại Tỳ Kheo và bốn muôn hai ngàn đại Bồ Tát.
Bấy giờ có Bồ Tát tên Vô Cấu Tạng cùng chúng Bồ Tát chín muôn hai ngàn cung kính vây quanh từ hư không đến.
Ðức Thế Tôn liền bảo đại chúng rằng chư Bồ Tát ấy được Phổ Hoa Như Lai ở thế giới Biến Thanh Tịnh Hạnh khuyến cáo đến thế giới Ta Bà nầy để được nghe ta giảng dạy pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Chư Bồ Tát khác cụng sẽ đến họp.
Ðức Thế Tôn tuyên bố xong, các chúng Bồ Tát đông vô lượng vô biên ở cõi khác và cõi nầy đều đến núi Kỳ Xà Quật đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi qua một phía.
Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát tay cầm hoa sen thất bửu ngàn cánh đến chỗ Ðức Như Lai đầu mặt lạy chưn Phật mà bạch rằng: " Bạch Ðức Thế Tôn! Ðức Phổ Hoa Như Lai ở thế giới Biến Thanh Tịnh Hạnh sai tôi mang hoa báu nầy dâng Ðức Thế Tôn.Ngài ân cần thăm hỏi Ðức Thế Tôn vô lượng ít bịnh í não khỏe mạnh an vui".
Bạch xong, Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát liềnbay lên hư không ngồi kiết gìa.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rời chỗ ngồi trịch y vai hữu quỳ gối hữu cung kính chắp tay mà bạch Ðức Phật rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi nhớ thuở xưa đã từng nghe đức Phổ đăng Phật nói pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Lúc ấy tôi được tám ngàn bốn trăm ức na do tha tam muội, lại biết được bảy mươi bảy mươi bảy muôn ức na do tha tam muội.
Lành thay Ðức Thế Tôn! Mong Ðức Thế Tôn xót thương vì chư Bồ Tát mà dạy pháp môn ấy".
Ðức Phật phán: "Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nay ông lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ nói cho".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng: "Vâng! Bạch Ðức Thế Tôn! Tôi xin được nghe".
Ðức Phật dạy: "Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu chư Bồ Tát muốn học pháp ấy thì phải tu tập các môn tam uội. Ðó là sắc tướng tam muội, thanh tướng tam muội, hương tướng tam muội, vị tướng tam muội, xúc tướng tam muội, ý giới tam muội, nam tướng tam muội, nữ tướng tam muội, đồng nam tường tam muội, đồng nữ tướng tam muội, thiên tướng tam muội, long tướng tam muội, dạ xoa tường tam muội, càn thát bà tướng tam muội, a tu la tướng tam muội, ca lâu la tướng tam muội, khẩn na la tướng tam muội, ma hầu la già tướng tam muội, địa ngục tướng tam muội, súc sanh tướng tam muội, diêm ma la giới tam muội, tham tướng tam muội, sân tướng tam muội, si tướng tam muội, bất thiện pháp tam muội, thiện pháp tam muội, hữu vi tam muội, vô vi tam muội.
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nơi các tam muội ấy, nếu chư Bồ Tát khéo thông đạt thì đã là tu học pháp ấy.
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! hế Nào gọi là sắc tướng tam muội?
Quán sắc như đống bọt
      Nó không có chắc thiệt
      Vì chẳng nắm giữ được
      Ðó tên sắc tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là thanh tướng tam muội?
Quán thanh như âm vang
      Tánh nó bất khả đắc
      Các pháp cũng như vậy
      Không tướng không sai biệt
      Biết rõ đều tịch tịnh
      Ðó tên thanh tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là hương tướng tam muội?
Dầu là trăm ngàn kiếp
      Thường ngửi các thứ hương
      Như biển nạp các dòng
      Mà không hề chán đủ
Hương ấy nếu là thiệt
      Lẽ ra phải đầy đủ
Chỉ có danh tự giả
Kỳ thiệt bất khả đắc
      Mũi cũng vô sở hữu
      Biết rõ tánh không tịch
      Ðó tên hương tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là vị tướng tam muội?
Lưỡi kia chỗ nếm biết
      Mặn chua các thứ vị
Ðều từ các duyên sanh
      Tánh nó vô sở hữu
      Nếu biết được như vậy
      Nhơn duyên hòa hiệp khởi
      Biết nghĩa bất tư nghị
Ðó tên vị tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là xúc tướng tam muội?
Xức chỉ có danh tự
Tánh nó bất khả đắc
      Mịn trơn ấm các pháp
      Ðều từ các duyên sanh
      Nếu biết được xúc tánh
      Nhơn duyên hòa hiệp khởi
      Rốt ráo vô sở hữu
      Ðó tên xúc tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là ý giới tướng tam muội?
Dầu hợp cả Ðại Thiên
      Vô lượng các chúng sanh
      Nhứt tâm đồng suy tìm
      Ý Giới bất khả đắc
      Chẳng ở trong hay ngoài
      Cũng chẳng thể tu tập
      Chỉ dùnd những giả danh
      Gọi là có các tướng
      Dường như là huyễn hóa
      Không trụ không xứ sở
Biết rõ nó tánh không
      Ðó tên ý tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là nam tướng tam muội?
Tự cho mình nam tử
Thấy kia là nữ nhơn
      Do tâm phân biệt nầy
      Mà sanh lòng ái dục
      Lòng dục vô sở hữu
      Tâm tướng bất khả đắc
      Do vì vọng phân biệt
      Nơi thân tưởng là nam
      Trong ấy không thiệt nam
      Ta nói như dương diệm
      Biết nam tướng là không
      Ðó tên nam tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là nữ tướng tam muội?
Tứ đại giả làm nữ
Trong ấy vô sở hữu
      Lòng phàm phu mê hoặc
      Nắm lấy cho là thiệt
      Nữ nhơn như huyễn hóa
      Người ngu chẳng biết được
      Vì vọng thấy nữ tướng
      Mà sanh lòng nhiễm trước
      Ví như huyễn hóa nữ
Mà chẳng thiệt nữ nhơn
      Kẻ vô trí mê hoặc
      Bèn sanh tưởng ái dục
      Biết rõ như vậy rồi
      Tất cả nữ không tướng
      Tướng nữ đều vắng bặt
      Ðó tên nữ tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là đồng nam tướng tam muội?
Như cây không rễ nhánh
      Thì chẳng có được hoa
      Vì đã chẳng có hoa
      Nên trái cũng chẳng sanh
      Do không có nữ nhơn
      Ðồng nam cũng chẳng có
      Tùy ở người phân biệt
      Giả gọi tên như vậy
      Biết rõ nữ nhơn ấy
      Và đồng nam chẳng có
      Quan sát dược như vậy
      Là đồng nam tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là đồng nữ tướng tam muội?
Như chặt cây đa la
      Trọn chẳng còn sống lại
      Ðâu có người trí huệ
Cầu trái hột trong ấy
      Nếu ai biết rõ được
      Các pháp là vô sanh
      Chẳng nên khởi phân biệt
      Ðồng nữ là năng sanh
      Lại như hột lúa cháy
      Mầm lúa chẳng còn sanh
      Ðồng nữ cũng như vậy
      Là đồng nữ tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là thiên tướng tam muội?
Nhơn tính tâm thanh tịnh
      Và do các nghiệp lành
      Thọ thắng báo chư Thiện
      Thân đoan chánh xinh đẹp
      Các cung điện trân bửu
      Chẳng phải do xây dựng
      Hoa đẹp mạn đà la
      Cũng không ngưới gieo trồng
      Bất tư nghị như vậy
      Ðều do sức nghiệp lành
      Hiện được các thứ tướng
      Như lưu ly trong sạch
      Thân đẹp xinh như vậy
      Và các cung điện thảy
      Ðều từ hư vọng sanh
      Ðó tên thiên tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là lonf tướng tam muội?
Thọ lấy thân loài rồng
      Do chẳng tu hạnh nhẫn
      Nổi mây tuôn mưa lớn
      Ðầy khắp Diêm Phù Ðề
Chẳng từ thuở trước sau
      Cũng chẳng ở chặng giữa
      Mà hay tuôn nước mưa
      Lại chảy về biển cả
Các loài rồng như vậy
      Huân tập tánh sai biệt
      Khởi lên các thứ nghiệp
      Nghiệp cũng không có sanh
      Tất cả chẳng chơn thiệt
      Kẻ ngu cho là có
      Biết rõ được như vậy
      Ðó là long tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là dạ xoa tướng tam muội?
Là thân đại dạ xoa
      Từ nơi tự tâm khởi
      Trong ấy không có thiệt
      Vọng sanh sự khủng bố
Cũng không có lòng sợ
Mà sanh lòng kinh sợ
Vì quán phap chẳng thiệt
      Vô tướng vô sở đắc
      Chỗ không vô tịch tịnh
      Hiện tướng dạ xoa ấy
      Biết hư vọng như vậy
      Là dạ xoa tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là càn thát bà tướng tam muội?
Họ thiệt không có tướng
      Danh ngôn giả bịa đặt
      Biết tướng là chẳng tướng
      Là càn thát tam muội
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là a tu la tướng tam muội?
Ấn định tướng tu la
      Tướng ấy vốn vô sanh
      Vô sanh nên vô diệt
      Là tu la tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là ca lâu la tướng tam muội?
Lấy vô thân làm thân
      Danh tự giả bịa đặt
      Danh tướng vô sở hữu
      Là ca lâu tam muội.
      Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là khẩn na la tướng tam muội?
      Pháp vô tác làm tác
      Gọi là khẩn na la
      Biết đó là vô sanh
      Khẩn na la tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là ma hầu la gìa tướng tam muội?
Kia do nơi danh tự
Theo thế tục an lập
      Trong ấy không có pháp
      Mà vọng khởi phân biệt
      Biết rõ phân biệt ấy
      Tự tánh vô sở hữu
      Vì tướng ấy tịch tịnh
      Ma hầu la tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là địa ngục tướng tam muội?
Ðiạ ngục không vô tướng
      Tánh ấy rất thanh tịnh
      Trong ấy không tác giả
Do Tự phân biệt sanh
      Lúc ta ngồi đạo tràng
      Biết tướng vô sanh nầy
      Vì vô tướng vô sanh
      Tánh ấy như hư không
      Tướng ấy đều tịch tịnh
      Là điạ ngục tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư ợi i Thế nào là súc sanh tướng tam muội?
Như mây hiện hình sắc
      Trong ấy không có thiệt
      Làm cho người vô trí
      Nơi ấy sanh mê hoặc
      Nơi loài súc sanh kia
      Thọ lấy các thứ thân
      Như mây trong hư không
      Hiện ra các sắc tượng
      Biết rõ nghiệp như huyễn
      Chẳng sanh lòng mê hoặc
      Tướng ấy vốn tịch tịnh
      Là súc sanh tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là diêm ma la giới tướng tam muội?
Gây tạo thuần nghiệp ác
      Và tạo các nghiệp tạp
      Lưu chuyển cõi Diêm La
      Thọ lấy các sự khổ
Thiệt không cõi Diêm La
      Cững không người lưu chuyển
      Tự tánh vốn vô sanh
      Các khổ dường cảnh mộng
      Nếu quán được như vậy
      Diêm ma la tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là tham tướng tam muội?
Tham từ phân biệt sanh
      Phân biệt cũng chẳng có
      Vô sanh cũng vô tướng
      Trụ xứ bất khả đắc
      Tham tánh như hư không
      Cũng không có kiến lập
      Phàm phu vọng phân biệt
      Do đó sanh tham nhiễm
      Pháp tánh vốn vô nhiễm
      Thanh tịnh như hu không
      Tìm cầu khắp mười phương
      Tánh nó bất khả đắc
      Vì chẳng biết tánh không
      Thấy tham sanh lòng sợ
Không có sợ sanh sợ
      Ở đâu đươc an vui
      Ví như kẻ ngu si
      Sợ sệt cõi hư không
      Vì sợ mà rong chạy
      Lánh không chẳng muốn thấy
      Hư không khắp tất cả
Chỗ nào rời nó được
      Vì kẻ ngu mê hoặc
      Sanh điên đảo phân biệt
      Tham vốn không tự tánh
      Vọng sanh tâm nhàm lìa
      Như người muốn lánh không
      Trọn không thoát khỏi được
      Các pháp tánh tự lìa
      Dường như là Niết Bàn
      Chư Phật trong ba đời
      Biết tham tánh là không
Ở trong cảnh giới ấy
      Chưa lúc nào bỏ lìa
      Người kinh sợ nơi tham
      Suy gẫm cầu giải thoát
      Tham tự tánh như vậy
      Rốt ráo thường thanh tịnh
      Lúc ta chứng Bồ Ðề
Rõ thấu đều bình đẳng
      Nếu chấp tham là có
      Sẽ bỏ lìa nơi tham
      Do hư vọng phân biệt
      Mà nói bỏ lìa tham
      Ðây là tâm phân biệt
      Thìệt không gì để bỏ
Tánh nó bất khả đắc
      Cũng không có diệt hoại
      Trong bình đẳng thiệt tế
Không giải thoát phân biệt
      Nếu giải thoát nơi tham
      Nơi không cũng giải thoát
      Hư không cùng với tham
      Vô tận vô sai biệt
      Nếu ai thấy sai biệt
      Phật bảo phải bỏ rời
      Tham thiệt không có sanh
      Vọng khởi sanh phân biệt
      Tham ấy bổn tánh không
      Chỉ có danh tự giả
Chẳng nên do giả danh
      Mà sanh lòng chấp trước
      Vì biết tham không nhiễm
      Thì là rốt ráo không
      Chẳng do diệt hoại tham
      Mà được nơi giải thoát
      Pháp tham ở Phật pháp
      Bình đẳng tức Niết Bàn
      Người trí phải nên biết
      Rõ tham tịch tịnh rồi
      Nhập vào cõi tịch tịnh
      Ðó tên tham tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là sân tướng tam muội?
Do nhơn duyên hư vọng
      Mà khởi lòng giận dữ
Không ngã chấp làm ngã
      Và do tiếng thô ác
      Khởi lòng sân quá mạnh
      Dường như là á độc
      Âm thanh và giận dữ
Rốt ráo vô sở hữu
      Như Dùi gỗ ra lửa
      Cần nhờ sức các duyên
      Nếu duyên chẳng hòa hiệp
      Thì lửa chẳng sanh được
      Âm thanh chẳng đẹp ý
      Rốt ráo vô sở hữu
      Biết thanh tánh là không
      Sân cũng chẳng còn sanh
      Sân chẳng ở nơi thanh
      Cũng chẳng ở trong thân
      Nhơn duyên hòa hiệp khởi
      Rời duyên chẳng sanh được
      Như nhơn sữa làm duyên
      Hòa hiệp sanh tô lạc
      Sân tự tánh không khởi
      Nhơn nơi tiếng thô ác
      Người ngu chẳng biết được
      Nhiệt não tự đốt cháy
      Phải nên biết như vầy
      Rốt ráo vô sở hữu
      Sân tánh vốn tịch tịnh
      Chỉ có nơi giả danh
      Giận dữ tức thiệt tế
Bởi nương chơn như khởi
      Biết rõ như pháp giới
      Thì gọi sân tam muội
Lạy nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là si tướng tam muội?
Vô minh thể tánh không
      Vốn tự không sanh khởi
      Trong ấy không chút pháp
      Mà nói được là si
      Phàm phu nơi vô si
      Hư vọng sanh lòng si
      Nơi vô trước sanh trước
      Dường như gút hư không
      Lạ thay cho kẻ ngu
      Chẳng nên làm mà làm
      Các pháp đều chẳng có
      Do nhiễm phân biệt sanh
      Như muốn lấy hư không
      An trí ở một chỗ
Dầu trải ngàn muôn kiếp
      Không hề tích tụ được
      Kẻ ngu từ hồi nào
      Trải bất tư nghị kiếp
      Vọng khởi gút ngu si
      Mà không chút phần tăng
      Như người lấy hư không
      Không bao giờ tăng giảm
      Nhóm ngu si nhiều kiếp
      Không tăng giảm cũng vậy
      Lại như ống bễ kia
      Rút gió không hạn lượng
      Ngu si mê dục lạc
      Không lúc nào chán đủ
Si ấy vô sở hữu
      Không căn không trụ xứ
Vì căn chẳng phải có
      Cũng không si để tận
      Bởi vì si vô tận
      Biên tế bất khả đắc
      Thế nên các chúng sanh
      Ta chẳng thể làm tận
      Dầu ta trong một ngày
      Ðộ được cõi Ðại Thiên
      Có bao nhiêu chúng sanh
      Ðều khiến nhập Niết Bàn
      Trải qua bất tư nghì
      Vô lượng ngàn muôn kiếp
      Ngày ngày độ như vậy
      Chúng sanh giới chẳng tận
      Si giới chúng sanh giới
      Cả hai đều vô tướng
      Nó đều như huyễn hoá
      Nên chẳng làm tận được
      Si tánh với Phật tánh
      Bình đẳng không sai khác
      Nếu phân biệt nơi Phật
      Người ấy ở ngu si
      Si và Nhứt thiết trí
      Tánh đều bất khả đắc
      Nhưng các chúng sanh ấy
      Với si đều bình đẳng
      Chúng sanh bất tư nghị
Si cũng bất tư nghị
Do vì bất tư nghị
Chẳng nên khởi phân biệt
      Tâm tư duy như vậy
      Suy lường bất khả đắc
      Si cũng chẳng thể lường
      Vì nó không biên tế
Ðã không có biên tế
Từ đâu mà sanh được
      Vì tự tánh vô sanh
      Tướng cũng bất khả đắc
      Biết si không có tướng
      Quán Phật cũng như vậy
      Phải nên biết như vậy
      Tất cả pháp không hai
      Tánh si vốn tịch tịnh
      Chỉ có danh tự giả
Lúc ta chứng Bồ Ðề
Cũng rõ si bình đẳng
      Quán sát được như vậy
      Gọi là si tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là bất tiện tam muội?
Biết tham sân si ấy
      Tất cả các phiền não
      Có bao nhiêu hành tướng
      Hư vọng không chơn thiệt
      Quan sát được như vậy
      Là bất thiện tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là thiện pháp tam muội ?
Các ông phải nên biết
      Những người sở thích thiện
      Tâm niệm đều sai khác
      Ðều đồng nơi một hạnh
      Dùng một tướng xuất ly
      Mà biết rõ tất cả
Vì thảy đều tịch tịnh
      Gọi là thiện tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là hữu vi tam muội?
Các ông phải nên biết
      Tất cả pháp hữu vi
      Chẳng phải sở tạo tác
      Cũng không cân lường được
      Ta biết rõ các hành
      Tánh nó không chứa họp
      Tất cả đều tịch tịnh
      Gọi hữu vi tam muội.
- Lại nầy Văn Thù Sư Lợi! Thế nào là vô vi tam muội?
Tánh vô vi tịch tịnh
      Trong ấy không sở trước
      Cũng lại chẳng xuất ly
      Chỉ có danh tự giả
Vì chúng sanh chấp trước
      Mà nói danh tự ấy
      Biết rõ được như vậy
      Là vô vi tam muội".
Lúc Ðức Thế Tôn nói kệ bất tư nghị vi diệu như vậy, có chín muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.Ba muôn sáu ngàn Tỳ Kheo dứt hết phiền não tâm được giải thóat.Bảy mươi hao muôn ức na do tha chư Thiên, sáu ngàn Tỳ Kheo Ni, một trăm tám mươi muôn ưu Bà Tắc, hai ngàn hai trăm Ưu Bà Di đều phát tâm Vô Thượng Bồ Ðề.
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Mong Ðức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà diễn nói danh tự của các môn tam muội.Làm cho người nghe các căn thông lợi được trí huệ sáng đối với các pháp, chẳng bị khuất phục bởi những chúng sanh tà kiến, cũng là cho họ chứng được bốn vô ngại biên tài, nơi một văn tự mà biết được các thứ văn tự, nơi các thứ văn tự .Lại dùng vô biên biện tài và các chúng sanh mà khéo thuyết pháp, cũng làm cho chứng được thậm thâm pháp nhẫn, trong một sát na biết tất cả hành, tất cả hành ấy mỗi hành lại có vô biên hành tướng đều biết rõ được cả".
Ðức Phật dạy: "Nầy Văn Thù Sư Lợi! Có tam muội tên Vô biên ly cầu .Nếu Bồ Tát được tam muội ấy thì hiện được tất cả các sắc thanh tịnh.
Có tam muội tên Khả úy diện.Bồ Tát được tam muội ấy có oai quang lớn chói che nhựt nguyệt.
Có tam muội tên Xuất diệm quang.Bồ Tát được tam muội ấy thì chói che được ánh sáng của tất cả Ðế Thích và Phạm Thiên.
Có tam muội tên Xuất ly.Bồ Tát được tam muội ấy làm cho chúng sanh xuất ly tất cả tham sân si.
Có tam muội tên Vô ngại quang.Bồ Tát được tam muội ấy thì chiếu sáng được tất cả Phật quốc.
Có tam muội tên Vô vong thất.Bồ Tát được tam muội ấy thì thọ trì được giáo pháp của chư Phật nói, và cũng có thể vì người khác mà diễn nói nghĩa Phật pháp.
Có tam muội tên Lôi âm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo có thể hiển thị tất cả ngôn âm lên đến trời Phạm Thiên.
Có tam muội tên Hỉ lạc.Bồ Tát được tam muội ấy có thể làm cho chúng sanh đầy đủ hỉ lạc.
Có tam muội tên Hỉ vô yểm.Bồ Tát được tam muội ấy, có ai thấy nghe Ngài đều không chán đủ.
Có tam muội tên Chuyên nhứt cảnh nan tư công đức.Bồ Tát được tam muội ấy có thể thị hiện tất cả thần biến.
Có tam muội tên Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo tuyên nói được tất cả ngữ ngôn.Trong một chữ nói tất cả chữ biết tất cả chữ đồng như một chữ.
Có tam muội tên Siêu nhứt thiết đà la ni vương.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo biết rõ được các đà la ni.
Có tam muội tên Nhứt thiết biện tài trang nghiêm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo phân biệt được tất cả văn tự và các thứ ngôn âm.
Có tam muội tên Tích tập nhứt thiết thiện pháp.Bồ Tát được tam muội ấy có thể làm cho chúng sanh đều nghe tiếng Phật, tiếng Pháp, tiếng Tăng, tiếng Thanh Văn, tiếng Duyên Giác, tiếng Bồ Tát, tiếng Ba la mật.Lúc Bồ Tát trụ tam muội như vậy thì làm cho các chúng sanh nghe tiếng ấy không dứt".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng: "Mong Ðức Thế Tôn gia hộ cho tôi được vô ngại biện tài để nói công đức thù thắng của pháp môn ấy".
Ðức Phật nói: "Lành thay, lành thay! Tùy ý nguyện của ông".
Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nơi pháp môn ấy mà thọ trì đọc tụng không có nghi hoặc, thì nên biết rằng người nầy ở trong thân hiện tại được bốn thứ biện tài là thiệp tật biện tài, quảng đại biện tài, thậm thâm biện tài và vô tận biện tài.Tâm Ngài thường hộ niệm các chúng sanh tùy chỗ tu hành của họ. Người nào sắp thối thất hư hoại, Ngài đều có thể giác ngộ họ cho họ không thối hoại".
Ðức Thế Tôn khen: "Lành thay, lành thay! Văn Thù Sư Lợi có thể khéo phân biệt được nghĩa ấy.Như người bố thí được báo giàu có lớn, người trì cấm giới quyết định sanh thiên, người có thể thọ trì được kinh điển nầy thì hiện đời được biện tài quết không hư vọng.
Như ánh sáng mặt trời chiếu ra thì trừ được tối tăm, như Bồ Tát ngồi tòa Bồ Ðề thành Ðẳng Chánh Giác quyết định không nghi, người thọ trì đọc tụng kinh điển nầy thì hiện đời dược biện tài cũng như vậy.
- Nầy Văn Thù Sư Lợi! Nếu có người ở hiện đời muốn cầu biện tài thì nơi kinh điển nầy phải tin ưa thọ trì đọc tụng vì người mà giảng rộng chớ sanh lòng nghi hoặc".
Bấy giờ Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát bạch rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn! Sau khi Ðức Phật nhập Niết Bàn, nơi pháp môn nầy, nếu chư Bồ Tát tâm không nghi hoặc mà thọ trì đọc tụng rộng giảng thuyết cho người, thì tôi sẽ nhiếp thọ thêm biện tài cho họ".
Lúc ấy Ma Vương Ba Tuần lo rầu khổ não rơi lệ đến chỗ Ðức Phật mà bạch rằng: "Ngày xưa lúc Ðức Như Lai chứng Vô Thượng Bồ Ðề, tôi đã lo rầu rồi. Hôm nay Như Lai lại nói pháp môn nầy càng thêm khổ não nhiều như trúng phải tên độc.Nếu chúng sanh nghe kinh điển nầy quyết định không thối chuyển nơi Vô Thượng Bồ Ðề mà bát Niết Bàn, làm cho thế giới tôi phải trống rỗng.
Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác hay làm cho tất cả chúng sanh khổ sở đều được an vui. Mong Ðức Như Lai thương xót chẳng hộ niệm kinh diển nầy cho tôi được an ổn hết lo khổ".
Ðức Thế Tôn bảo Ba Tuần rằng: "Chớ cưu lòng lo khổ.Nơi pháp môn nầy ta chẳng gia hộ.Các chúng sanh cũng chẳng Niết Bàn".
Thiên ma Ba Tuần nghe lời nầy vui mừng hết buồn lo liền ẩn mất.
Ngài Văn thù Sư Lợi Bồ Tát tiến lên bạch rằng:" Có mật ý gì mà Ðức Thế Tôn hôm nay bảo Ba Tuần rằng Phật chẳng gia hộ pháp môn nầy?".
Ðức Phật phán: "Nầy Văn Thù Sư Lợi! Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này, vì thế nên ta nói với Ba Tuần như vậy.Bởi tất cả pháp bình đẳng thiệt tế đều quy nơi chơn như đồng với pháp giới rời các ngôn thuyết, vì tướng bất nhị nên không có gia hộ.
Do lời thành thiệt không có hư vọng của ta như vậy có thể làm cho kinh điển nầy rộng lưu truyền tại Diêm Phù Ðề".
Phán dạy xong, Ðức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng: "Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Phổ Nhập Bất Tư Nghị Pháp Môn.
Nếu ai thọ trì được kinh điển nầy là thọ trì tám muôn bốn ngàn pháp môn, hai sự thọ trì ấy đồng nhau không sai khác.Tại sao vậy? Ví ta ở nơi kinh nầy thông đạt rồi mới có thể vì các chúng sanh mà diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp môn.
Thế nên, nầy A Nan! ông phải khéo hộ trì đọc tụng lưu thông pháp môn nầy chớ để quên mất".
Ðức Phật nói kinh nầy rồ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan và các thế gian Thiên, Nhơn A Tu La v.v… tất cả chúng hội nghe lời Ðức Phật dạy đều rất vui mừng tin thọ phụng hành.