Chương
11. Đối tượng và phước đức của bố thí
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Cho một người
ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho 1.000 người thiện ăn không bằng cho
một người thọ trì năm giới ăn. Cho 10.000 người thọ trì năm giới ăn không bằng
cho một vị Tu đà hoàn ăn. Cho 1.000.000 vị Tu đà hoàn ăn không bằng cho một vị
Tư đà hàm ăn. Cho 10.000.000 vị Tư đà hàm ăn không bằng cho một vị A la hán ăn.
Cho 1.000.000.000 vị A la hán ăn không bằng cho một vị Bích Chi Phật ăn. Cho
10.000.000.000 vị Bích Chi Phật ăn không bằng cho tam thế chư Phật ăn. Cúng
dường cho 100.000.000.000 tam thế chư Phật không bằng cúng dường cho một vị vô
niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng ăn vậy.
II. LƯỢC GIẢI
Chương 10, Đức Phật dạy về công
đức vô tận của một người tu hạnh tùy hỷ với việc làm thiện ích của bố thí. Đến
chương 11 này, cũng liên quan đến vấn đề bố thí, nhưng Đức Phật nhấn mạnh đến
khía cạnh quả báo tăng giảm, nhiều ít khác nhau tùy thuộc hoàn toàn vào đối
tượng thọ thí. Thông qua đó, giá trị đạo đức của con người, giá trị phạm hạnh
của người xuất gia và giá trị tu chứng của các hành giả được đề cao đúng mức.
Tùy theo cấp bậc và mức độ trau dồi tu tập, vị ấy sẽ có một giá trị đạo đức
tương xứng theo cấp bậc tu tập.
Trước khi đi vào nội dung kinh,
chúng ta cũng nên khảo sát qua xuất xứ và nguyên bản kinh này.
Nguyên văn của kinh này được tìm
thấy trong Kinh Tăng Chi Bộ III, từ tr. 225-228. Phần kinh văn trong chương này
là phần sau. Phần duyên khởi của kinh là vô vấn tự thuyết, Đức Phật hỏi Trưởng
giả Cấp Cô Độc có bố thí cho người trong gia đình ông không. Ông trả lời có,
nhưng chỉ là những món ăn tồi tệ, làm từ gạo bể vụn. Còn những phẩm vật ngon,
ông dành cho người ngoài. Nhân đó, Đức Phật dạy rằng: “Bố thí vật quý giá hay
không quý giá, không quan trọng, vấn đề là khi hành thí, người bố thí phải chú
tâm, tự tay mình đem cho, bằng lời ôn hòa nhã nhặn. Bố thí như vậy mới có giá
trị”. Sau đó, Đức Phật kể lại tiền thân của Ngài làm một Bà la môn đại phú tên
Valamo. Trong một hội đại thí, Valamo bố thí cả 84.000 bát vàng đầy bạc, 84.000
bát bạc đầy vàng, 84.000 bát đồng đầy châu báu, 84.000 đại tượng tr. sức vàng,
84.000 cỗ xe trải sa sư tử, cọp, báo, mền vàng, 84.000 con bò, 84.000 thiếu nữ
tai đeo báu vật, 84.000 giường nằm bằng nệm sơn dương Kadali, 84.000 thước vải
tốt nhất. Rồi Đức Phật khẳng định với Trưởng giả Cấp Cô Độc rằng tài sản bố thí
của Valamo tuy nhiều nhưng không bằng phước báo cúng dường cho một người có chánh
kiến. Cúng dường cho 100 người có chánh kiến không bằng phước đức cúng dường
cho một vị Nhất lai. 100 vị Nhất lai không bằng một vị Bất lai. 100 vị Bất lai
không bằng 1 vị A la hán. 100 vị A la hán không bằng 1 vị Bích Chi Phật. 100
Bích Chi Phật không bằng một Đức Như Lai. Xây dựng tịnh xá cho tứ phương Tăng,
phước báo hơn cúng dường cho một Như Lai.
So sánh nguyên tác với bản văn
của kinh, chúng ta thấy: Nguyên tác của Kinh Tăng Chi chỉ có 7 tầng bậc bố thí,
bắt đầu từ tài thí kếch sù và kết thúc ở xây dựng tịnh xá cho tứ phương Tăng.
Mỗi tầng bậc tỷ lệ nhất định ở con số 100. Trong khi đó, bản văn Kinh Bốn Mươi Hai Chương và bản dịch
của hai ngài Ma Đằng, Trúc Pháp Lan lại có đến 9 tầng bậc. Khởi đầu từ người ác
và chấm dứt ở Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng. Một quan điểm rất Đại thừa Bắc
tông.
Khảo sát nội dung hai bản văn,
ta thấy cả hai đều toát lên được giá trị vô song của nếp sống đạo đức nhân bản
và siêu thế. Đạo đức nhân bản là đời sống mẫu mực, hiền lương và lý tưởng của
con người, nhưng nó có giá trị nhất định là nhân thừa, không thể sánh với giá
trị đạo đức siêu thế, vị hành giả đã từng bước tu tập xuất ly tam giới, có vị
Nhất lai, Bất lai, A la hán; có vị tự mình giác ngộ và có vị toàn giác. Tùy
theo mức độ giác ngộ mà giá trị đạo đức tăng dần.
Nhiều người ác độc không phẩm
cách đạo đức không thể sánh tày một người hiền lương. Cho nên bố thí cho họ
không có quả báo lớn như bố thí cho vị có đạo đức. Bởi lẽ, người ác thọ thí sẽ
không làm điều thiện, còn người đạo đức thì làm điều thiện. Làm điều thiện thì
từ một thiện mà các thiện tăng trưởng như pháp môn vô tận đăng. Gieo nhân tốt
vào mảnh ruộng chai sơ, thiếu sức sống thì nhân tốt đó cũng phát triển một cách
èo uột, mòn mỏi rồi chết. Nhân tốt không chưa đủ. Nhân tốt phải gieo trong mảnh
ruộng tốt mới trổ sinh quả dị thục tốt. Cũng vậy, bố thí là nghiệp nhân thiện,
nhưng đối tượng thọ thí là ác nhân, quả báo sẽ chẳng là bao. Điều này, ngụ ý
dạy rằng hảo tâm tùy tiện, thiếu thiện xảo, thiếu sách lược, chiến lược đôi lúc
nhân thiện sẽ trổ quả bất thiện, nếu kẻ thọ thí đã ác mà còn tạo tác thêm ác.
Đức Phật dạy chúng ta vận tâm từ bi bình đẳng, nhưng đứng về phương diện lợi
ích có chiều kích rộng lớn, thiết thực, thì người hành thì phải biết gieo trồng
đúng đối tượng. Quan điểm này là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ giáo điển của
Đức Phật. Trong Kinh Nikaya, Đức Phật cho biết bố thí cúng dường cho các vị
thành tựu tám Chánh đạo là đã gieo trồng nhân thiện vào ruộng tốt, sẽ trổ sinh
quả dị thục thiện to lớn có lợi ích lớn:
“Này các Tỳ kheo, thửa ruộng không
có lồi lõm, không có sạn đá, không có đất mặn, có bề sâu, có chỗ nước chảy ra,
có chỗ nước chảy vào, có nước chảy, có đê tốt. Do đó, hạt giống được gieo vào
có vị ngọt lớn, có địa điểm tăng thịnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, bố thí, cúng
dường giữa những sa môn, Bà la môn thành tựu thánh đạo tám ngành có quả lớn, có
lợi ích lớn, có rực rỡ, có rung cảm lớn.”[1]
Lời dạy này tương xứng với
nguyên tác Kinh Tăng Chi: “Cúng dường bố thí tài sản nhiều vô lượng cho người
bình thường ăn không bằng cúng dường bố thí cho một người có chánh kiến”; và
cũng đồng với kinh văn của chương này: “Cúng dường cho 100 người ác, quả báo
không bằng cúng dường cho một người thiện ăn”.
Ở Kinh Tăng Chi, Đức Phật còn
dạy rằng bố thí cúng dường cho một Tỳ kheo, chỉ có quả báo lớn, khi vị Tỳ kheo
ấy không có tâm tham đắm vật thực cúng dường mà chỉ thọ dụng để tu tập chánh
pháp, thoát ly sân tầm, dục tầm, ái tầm:
“Vị Tỳ kheo thọ dụng phẩm vật
cúng dường của tín chủ không tham dính, không say đắm, không chấp trước, thấy
được sự nguy hại, thấy được sự xuất ly. Vị ấy khởi lên suy tầm về viễn ly, khởi
lên suy tầm về vô sân, vô hận. Này các Tỳ kheo, như vậy có quả lớn. Vị Tỳ kheo
ấy sống không phóng dật.”[2]
Chúng ta còn được biết “Phóng
dật là đường chết. Không phóng dật, đường sống.”[3] Cũng nên lưu ý rằng sự
khích lệ của Đức Phật đến với người hành thí là hãy nên chọn người đức hạnh mà
cúng dường, không có nghĩa là Ngài ngụ ý chúng ta phải cung phụng Ngài, mà Ngài
chỉ nhằm xiển minh một sự thật: kẻ ác sẽ gặt quả dị thục xấu và người hiền lương,
đạo đức sẽ gặt quả dị thục thiện. Giá trị của kẻ ác, người thiện được định cứ
trên hành vi cuộc sống của chính bản thân họ. Có một lần, người ngoại đạo đã vu
khống cho Đức Phật rằng chỉ có bố thí cho Như Lai và đệ tử của Như Lai mới có
quả lớn. Đức Phật phủ nhận lời đồn đãi này và cho rằng lời ấy hoàn toàn xuyên
tạc:
“Này Vaccha, những người ấy nói
không đúng lời của chúng ta, chúng đã xuyên tạc ta với điều không thật. Chúng
đã nói láo. Này Vaccha, ai ngăn chặn người khác bố thì sẽ tạo cho mình ba chướng
ngại: 1/ Làm người cho không được công đức. 2/ Người nhận không được vật bố
thí. 3/ Tự ngã bị tổn thương lại càng tổn thương.”[4]
Tuy nhiên, ngay pháp thoại ấy,
Đức Phật vẫn một mực khẳng định giá trị vô song của người giới hạnh tu tập, và
cúng dường cho các vị này, phước báo to lớn:
“Này Vaccha, ta tuyên bố rằng,
bố thí cho người có giới hạnh được quả lớn. Cho người ác hạnh, không được như
vậy. Và người có giới hạnh là người đã đoạn tận năm pháp và thành tựu năm pháp.
Đoạn tận năm pháp là: tham, sân, hôn thùy, trạo hối, nghi. Thành tựu năm pháp
là: giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.”[5]
Trong khi đó, quan điểm phước
báo bố thí theo Bà la môn hết sức vô lý, vì nó chỉ bênh vực sống sượng cho giai
cấp Bà la môn mà thôi:
“Thưa tôn giả Gotama, ai làm lễ
tế đàn, ai có bố thí, muốn có lợi lớn phải bố thí cho các Bà la môn có ba minh.
Ba minh của Bà la môn là: truyền thống bảy đời là Bà la môn; giỏi phúng tụng,
trì chú, thông hiểu ba Veda; biện tài thuận thế học và nhân tướng học.”[6]
Như thế đủ thấy rằng quan điểm
của Phật giáo là toàn diện, phù hợp với nếp sống luân lý đạo đức, đề cao cái
thiện, bênh vực cho lý tưởng thiện, bài kích cái ác, lên án cái ác.
Một điểm khác nhau cơ bản giữa
nguyên tác và chương này là: “Cúng dường cho 1.000.000.000.000 tam thế chư Phật
không bằng cúng dường cho một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng” với “Cúng
dường cho 100 Đức Như Lai không bằng xây dựng một tịnh xá cho tứ phương Tăng”.
Đây là điểm khác nhau giữa quan
điểm Nam
truyền và Bắc truyền. Đối với Nam
truyền, Tăng bảo đóng vai trò quan trọng, là gạch nối không thể thiếu giữa Pháp
bảo với đối tượng tiếp nhận chân lý. Không có Tăng bảo, chánh pháp hay chân lý
siêu tuyệt của Đức Phật không được công bố, quảng bá, chúng sinh không được lợi
lạc. Xây dựng tịnh xá cho bốn phương Tăng là xây dựng cơ sở cần thiết cho bốn
phương Tăng tu tập, hành trì và truyền bá. Chính đó là nơi sản xuất Thánh Tăng,
Tăng tài làm triển nở hoa chánh pháp, và chúng sinh nhờ đó tiếp thu được chánh
pháp để trau dồi tu tập. Xây dựng tịnh xá cho bốn phương Tăng là xây dựng mầm
giác ngộ, tỉnh thức, cái mà Đức Phật hoài bão và di chúc. Do đó, cúng dường cho
100 Đức Như Lai cũng là gieo thiện nhân nhưng không lợi ích trong việc hoằng
hóa độ sinh bằng xây dựng tịnh xá cho bốn phương Tăng.
Đối với Bắc truyền, đệ nhất
nghĩa đế được đề cao hơn hết. Nơi đệ nhất nghĩa chính là thể chân như bất động,
ly khai tất cả mọi khái niệm mặc ước, mọi ngôn thuyết giả danh và mọi áp đặt
của con người. Người vô niệm, là chánh niệm, chánh niệm là tỉnh thức. Người vô trụ
là người không còn ngã chấp, pháp chấp, lìa các chấp. Lìa các chấp là giải
thoát cứu cánh. Người vô tu, vô chứng là người sau khi nhận chân bản tâm thanh
tịnh, phản bổn hoàn nguyên, nên không còn chấp trụ vào đối tượng tu và chứng,
một sự tu chứng tuyệt đối. Do vậy, ý nghĩa cúng dường 100.000.000.000 tam thế
Như Lai không bằng cúng dường một vị vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng, là nhằm
đề cao giá trị giác ngộ tuyệt đỉnh của hành giả trên đường hướng đến Vô thượng
giác.
Đó là vấn đề của tư tưởng luận
và nhận thức luận.
***
Để có cái nhìn bao quát nội dung
của chương này, tưởng chỉ nên nhắc ở đây rằng, dù là công tác từ thiện xã hội,
chúng ta cũng cần đặt đúng đối tượng. Những đối tượng nào cần ủng hộ, giúp đỡ,
và giúp đỡ nào khai sinh thiện pháp mới đầu tư vào. Vì thiện theo Phật giáo
không thể nhất thời. Nó phải được xét trên hai phương diện thời gian (hiện tại,
vị lai) và lợi ích cho cả hai người bố thí và người thọ thí. Đồng thời, xuyên
qua sự chênh lệch về quả báo bố thí cho người thiện, người ác, chúng ta càng
thấm thía hơn tính khách quan, khoa học của nhân quả và giá trị đặc biệt của
giới hạnh, trí hạnh. chỉ có giới hạnh và trí hạnh mới nâng cao giá trị, phẩm
chất, tư cách, đạo đức của con người, mà kẻ ác độc hay người bình thường không
thể sánh kịp. Chính như thế, đạo Phật được gọi là Đạo của các người trí giác
hiểu, là đạo tôn trọng, đề cao đạo đức và huấn luyện đạo đức theo đúng nguyên
ngữ của từ này.
[1] Tăng Chi III, tr. 87.
[2] Tăng Chi I, tr.316.
[3] Dhp.21.
[4] Tăng Chi I, tr. 180-181.
[5] Tăng Chi I, tr. 18.
[6]
Kinh đã dẫn, tr. 187.