Chương
37. Chứng đạo phải do sự tu tập
(Như Lai chỉ là người chỉ đường)
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy dạy rằng: Phật tử
dù xa Như Lai hàng ngàn dặm nhưng luôn tác ý, thực hành giới pháp của Như Lai,
nhất định chứng đắc đạo quả. Những ai tuy thân cận bên Như Lai, thường thấy Như
Lai, nhưng không thực hành giới pháp của Như Lai, nhất định không thể nào chứng
đắc đạo quả.
II. LƯỢC GIẢI
Điều kiện cần và đủ để một hành
giả chứng đắc quả vị phải là con đường tu tập. Vị trí của Đức Phật chỉ là đấng
Đạo sư, bậc Pháp Vương, chỉ dạy cho chúng ta con đường giải thoát, chứ không
thể ban cho chúng ta quả vị giải thoát. Mặc dù gặp được Đức Phật, gặp được Tam
Bảo là khó (chương 12, điều 4, 5; chương 36 điều 5), nhưng nếu đã được thân cận
Như Lai mà không biết thực hành giới pháp Đức Phật chỉ dạy bằng vô ích. Đó là
nội dung chương này đề cập đến. Để nắm vững nội dung kinh văn, tưởng cũng nên
điểm qua ý nghĩa các thuật ngữ trong kinh văn.
1- Phật tử: Phật
tử là thuật ngữ chuyên dùng của kinh hệ Bắc truyền. Kinh hệ Nam truyền
không gọi người thực hành chánh pháp Đức Phật là Phật tử mà là “vị Thánh đệ
tử”. Phật tử hay Thánh đệ tử thì ý nghĩa cũng như nhau. Nhưng ở đây, chúng ta
chọn thuật ngữ Phật tử để phù hợp với kinh văn.
Theo ngữ nghĩa của thuật ngữ này
thì Phật tử không phải là con em máu thịt của Đức Phật mà là con em tinh thần,
con em trong sự tu tập chánh pháp. Trong phân loại thì Phật tử gồm hai loại
hình: Phật tử xuất gia (Sa di, Sa di ni, Thức xoa ma na ni, Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni) và Phật tử tại gia (thọ trì năm giới, tám giới và những chuẩn tắc luân lý
đạo đức).
Theo ý nghĩa triết học Phật
giáo, Phật tử phải là những ai “trụ Như Lai xứ, trì Như Lai sự” là người “thiệu
long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu” hay là
người cưu mang sự nghiệp “hoằng pháp vi gai vụ, lợi sinh vi bản hoài”, chứ
không đơn thuần, hạn cuộc ở cái phái quy y hay chứng điệp thọ giới.
Kinh Phạm Võng định nghĩa Phật
tử rất sâu sắc, người đi theo con đường giác ngộ của Đức Phật đã đi để cùng
chứng đạt Phật vị là Phật tử: “Bất kỳ ai thọ trì giới pháp của Như Lai, tức đã
từng bước đạt được những thang bậc giác ngộ (Phật vị). Chỉ khi nào đạt được quả
vị Đẳng Chánh Giác mới chân thật là Phật tử, người giác ngộ không đồng Đức Phật
về mặt thời gian”.
Luận Phật Địa I, định nghĩa đơn
giản hơn, ai nhờ chân lý chánh pháp, trở về con đường chân chính, người đó là
Phật tử, “nhờ năng lực truyền bá của Phật giáo mà khai sinh trong ngôi nhà
chánh pháp thì gọi là Phật tử. Hay những ai xương minh mầm mống giác ngộ ở khắp
mọi nơi để ánh sáng chân lý được chói diệu thì người đó là Phật tử”.
Pháp Hoa Văn Cú 9 nói rằng: “Tất
cả chúng sinh đều có ba chủng tánh, thể nhập được Phật tánh mới gọi là Phật
tử”.
Trong nguyên tác Kinh Pháp Hoa,
Phật tử không chỉ luôn là người thực hành chánh pháp mà còn phải là người sau
khi chứng đặng pháp phần nhị thừa còn phấn đấu bỏ nhị thừa hướng đến nhất Phật
thừa, được như vậy mới đích thực là Phật tử theo quan niệm của Đức Phật trong Kinh
Pháp Hoa, như chính Xá Lợi Phất đã tự trách: “Nay được nghe pháp (Pháp Hoa)
chưa từng có trước chưa hề nghe, dứt lòng nghi hối, thân ý thơ thới rất được an
ổn. Chính nay mới biết mình thật là Phật tử, từ miệng Phật sinh ra, từ chánh
pháp hóa sinh, chứng đắc những bậc thang giác ngộ.”[1]
Kinh Tăng Chi, khi đánh giá một
cư sĩ tại gia chỉ cứ định trên năm nguyên tắc chính sau khi đã thọ trì tam quy
ngũ giới: 1/ Có chánh tín Tam Bảo. 2/ Có giới đức, trí đức. 3/ Không đoán tương
lai với những lễ nghi đặc biệt. 4/ Không tin tưởng điềm lành, nhưng tin tưởng ở
hành động. 5/ Không tìm kiếm ngoài tăng chúng người xứng đáng tôn trọng và tại
đấy phục vụ trước.”[2]
Một số định nghĩa cơ bản về
thuật ngữ Phật tử vừa trình bày sẽ góp phần giúp chúng ta hiểu xác thật lời dạy
của Đức Phật ở chương này.
2- Giới pháp: Giới pháp là thuật ngữ
được ghép bởi giới luật và chánh pháp.
Giới luật trong Phật giáo được
xem là những hàng rào đạo đức. Hay nói khác hơn, bản thân của mỗi giới khoản là
một hành vi đạo đức. Chính những hành vi được thực thi trong khuôn pháp của
giới luật giúp hành giả chóng thành tựu đạo đức nhân bản và đạo đức siêu thế.
Giới luật là một biện chứng pháp, là thềm thang đầu của bậc chứng tam tuệ học:
giới, định, tuệ. Giới luật tự bản thân nó có những giá trị thù diệu. Nó đem lại
cho người thọ trì một hệ quả tất yếu là giải thoát. Do đó, giới được các vị Tổ
sư tán thán như là cơ sở nền tảng của mọi thiện pháp, ngay cả thiện pháp của Bồ
Tát hạnh: “Giới vi vạn hạnh chi căn nguyên, lục độ chi cơ bản” là cũng do vì
tính chất giải thoát của nó.
Trong kinh khi phân định giá trị
của các tài sản bị đánh mất, Đức Phật tuyên bố một cách xác quyết “mất giới
luật là tổn thất nặng nề nhất cũng như người tổn thất chánh tri kiến” vậy:
“Này các Tỳ kheo, có năm loại
hình tổn thất. Tổn thất bà con, tổn thất tài sản, tổn thất bệnh tật, tổn thất
giới, tổn thất trí tuệ. Này các Tỳ kheo, không do tổn thất bà con, tài sản,
bệnh tật mà các loài hữu tình sau khi thân hoại mạng chung sinh vào đọa xứ.
Nhưng do tổn thất giới hay tổn thất trí tuệ, các loài hữu tình sau khi thân
hoại mạng chung sinh vào đọa xứ.”[3]
Đồng thời, kinh cũng xác nhận,
người thọ trì giới luật, có trí tuệ thành tựu những lợi ích an ổn vô thượng, dù
là đang ở đâu trên quả đất này:
“Chấp nhận học hỏi các học pháp.
Nghiên cứu nhiều khéo thể nhập chánh trí. Truyền đạt hai giới bổn Patimokkha.
Rõ biết nguyên nhân, cách chấm dứt sự tranh cãi. Ưa thích chánh pháp, luôn dùng
ái ngữ. Tri túc thiểu dục, hộ trì các oai nghi, chứng đắc bốn thiền thuộc tăng
thượng tâm. Ngay hiện tại với thắng trí an trú vô lậu tận giải thoát. Này các
Tỳ kheo, thành tựu các pháp ấy, dù cư trú tại địa phương nào, vị ấy sống trong
an lạc giải thoát.”[4]
Chánh pháp là giáo pháp nói
chung, bao gồm nhiều mục tiêu giáo dục, nhưng vẫn xoay quanh hai trục chính là
giáo dục nhân bản và giáo dục siêu thế. Có một điều chúng ta cần nhớ là đặc thù
của chánh pháp là ở mỗi kinh là mỗi vẻ, đa dạng và phong phú, chúng ta không
thể đúc kết hết toàn bộ chánh pháp mà Đức Phật thuyết trong 45 năm hoằng đạo,
chúng ta chỉ có thể trích dẫn một vài đặc điểm chính của chánh pháp từ các kinh
đã có hệ thống sẵn mà thôi.
Kinh Atula Paharada (A.iv.197)
thuộc Tăng Chi Bộ III, tr.
53-58, Đức Phật nêu lên tám đặc điểm quan trọng trong giáo pháp của Ngài là:
(1) Ví như biển lớn này tuần tự
thuận xuôi, tuần tự thuận hướng, tuần tự sâu dần, không có tính thình lình như
một vực thẳm. Cũng vậy, này Paharada, trong pháp và luật này các học pháp là
tuần tự, các quả dị thục là tuần tự, các con đường là tuần tự, không có sự thể
nhập chánh trí thình lình.
(2) Ví như biển lớn đứng một
chỗ, không có vượt qua bờ. Cũng vậy, này Paharada, khi các học pháp của ta sửa
soạn cho các đệ tử của ta, dù cho vì sinh mạng cũng không vượt qua.
(3) Ví như biển lớn không chứa
chấp xác chết. Nếu có xác chết, lập tức bị quăng lên bờ hay vất lên đất liền.
Cũng vậy, này Paharada, người nào ác giới theo ác pháp, sở hành bất tịnh, có
những hành vi che đậy, không phải sa môn, không sống phạm hạnh, tự nhận là phạm
hạnh. Nội tâm hôi hám, chứa đầy tham dục, tính tình bất tịnh, chúng Tăng sẽ
không sống chung với vị ấy, lập tức hội họp lại và đuổi người ấy ra khỏi.
(4) Ví như phàm có các con sông
lớn nào như sông Hằng, sông Yamaha, sông Aciravati, sông Sarabiku, sông Mahi.
Khi chúng chảy đến biển liền bỏ tên gọi của nó để trở thành biển lớn. Cũng vậy,
này Paharada, bốn giai cấp, Bà la môn, Sát đế lợi, Phệ xá, Thủ đà la, sau khi
từ bỏ gia đình sống trong pháp và luật của Như Lai, tất cả bỏ hết tên họ, vị
trí xã hội để trở thành sa môn Thích tử.
(5) Ví như phàm có những dòng
nước gì chảy vào biển lớn hay là từ mưa trên không trung rơi xuống, nhưng không
vì vậy mà biển có thấy vơi đầy. Cũng vậy, này Paharada, dù cho có nhiều Tỳ kheo
nhập Niết bàn không có dư y thì Niết bàn ấy cũng không vì vậy mà có vơi đầy.
(6) Ví như biển lớn chỉ có một
vị là mặn. Cũng vậy, này Paharada, pháp và luật của Như Lai chỉ có một vị là vị
giải thoát.
(7) Ví như biển lớn có nhiều
châu báu như trân châu, ma ni, lưu ly, xà cừ, ngọc bích, san hô, vàng bạc, ngọc
đỏ, mã não. Cũng vậy, này Paharada, pháp và luật này có bảy báu như: bốn niệm
xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám thánh
đạo.
(8) Ví như biển lớn là trú xứ
các loại chúng sinh lớn như con Timi, Timigala, những loài Atula, loài Naga,
loài Candhabba, các loài hữu tình với tự ngã dài 100, 200,… 500 do tuần, cũng
vậy, pháp và luật của Như Lai là trú xứ của các chúng sinh Dự lưu, Nhất lai,
Bất lai, A la hán.
Kinh Tăng Chi II, Đức Phật chỉ
xoáy sâu giá trị của giáo pháp ở mặt tu chứng và công năng giải thoát như sau:
“Này Upali, những pháp nào đưa
đến các mục đích: nhất hướng, nhàm chán ly tham, đoạn diệt ác, an tịnh, thắng
trí, giác ngộ Niết bàn, thời Upali, cần phải nhất hướng thọ trì: đây là pháp,
đây là luật, đây là lời dạy của Thế Tôn”.
Trong Kinh Anuruddha (A.iv,228)
thuộc Tăng Chi III, tr. 77-84, Đức Phật cho biết thêm bảy đặc điểm của giáo
pháp: 1/ Pháp cho người ít dục. 2/ Pháp cho người tri túc. 3/ Pháp cho người an
tịnh. 4/ Pháp cho người tinh cần. 5/ Pháp cho người trú niệm. 6/ Pháp cho người
thiền định. 7/ Pháp cho người trí tuệ[5].
3.- Như Lai chỉ là người chỉ
đường
Mặc dù Đức Phật là bậc giác ngộ,
nhưng Đức Phật không thể vì ân sủng mà ban tặng cho ai đó sự giác ngộ ngoài
những công thức để người ấy tự thực hiện. Đức Phật chỉ là người chỉ đường, sau
khi tự mình đi hết con đường giác ngộ, chỉ lại con đường đó cho mọi người cùng
đi để mọi người cùng đến. Nếu mọi người chịu đi theo, đau khổ sẽ đoạn tận, trí
tuệ sẽ hiển bày, mọi chướng ngại sẽ được tháo gỡ, như Kinh Pháp Cú, Đức Phật đã
xác quyết:
“Nếu ai
theo đường này
Đau khổ
được đoạn tận
Ta chỉ
dạy con đường
Với trí
gai chướng diệt
Hãy tự
nhiệt tâm hành
Như Lai
chỉ thuyết dạy
Tự hành
trì thiền định
Thoát
trói buộc ác ma.”[6]
Chính lời dạy này cho thấy, tất
cả mọi sự trông chờ, hay cầu nguyện van xin mà không thực hành cũng chỉ bằng vô
ích. Chúng ta sẽ chẳng đem lại chút gì về kết quả giải thoát cả, nếu chúng ta
bỏ rơi công năng hành trì tu tập. Đức Phật nhờ tu tập mà thành đạo, chúng ta
cũng phải nhờ tu tập để tự cứu thoát. Đức Phật chỉ là người chỉ đường. Do đó, kết
quả giải thoát của chúng ta phải do chính chúng ta nỗ lực thực hiện, chứ không
thể nương tựa vào một ai khác. Người giải thoát là người biết nương tựa vào
pháp, như nương tựa vào thuyền mà qua sông vậy:
“Những
ai hành trì pháp
Theo
chánh pháp hành trì
Sẽ đến
bờ bên kia
Vượt ma
lực khó thoát.”[7]
Chính vì nương vào chánh
pháp, thực hành chánh pháp mới được an lạc, giải thoát, cho nên kinh này Đức
Phật khẳng định sự chứng đạo không phải nhờ ở cạnh Như Lai, gần gũi Như Lai mà
phải là thực hành chánh pháp của Như Lai, mặc dù thân cận Như Lai là tốt: “Phật
tử dù xa Như Lai hàng ngàn dặm nhưng luôn tác ý ức niệm giới pháp của Như Lai,
nhất định chứng được đạo quả. Những ai tuy thân cận Như Lai nhưng không thực
hành giới pháp của Như Lai, không thể nào chứng đắc đạo quả”.
Ngay lời dạy này làm chúng ta
liên tưởng đến những ý tứ giáo dục tương tự ở kinh Pháp Hoa. Thay vì chứng đắc
được đạo, Kinh Pháp Hoa bảo là “thấy được Như Lai”, thấy Như Lai ở đây là thấy
đạo Vô thượng.
“Người
trí đọc kinh này
Thời là
đã thấy ta
Cũng
thấy Phật Đa Bửu
Và các
Phật phân thân.”[8]
Hầu như trong các kinh từ Nikaya
đến Bắc truyền, Đức Phật đều xác chứng vị trí của Ngài là người chỉ đường,
không phải là đóng vai ban ân sủng giải thoát. Gần gũi Như Lai, biết được lời
dạy của Như Lai, mà không đi theo con đường của Như Lai là một điều vô cùng oan
uổng. Đức Phật khuyên chúng ta thực hành chánh đạo của Ngài, chứ không thể vì
một lý do nào đó mà ban cho chúng ta quả vị, như Ngài đã khẳng định.
“Như Lai, này các Tỳ kheo, là
bậc A la hán, Đẳng chánh giác, làm cho khởi lên con đường trước kia chưa được
khởi, là bậc đem lại con đường trước kia chưa được đem lại. Là bậc truyền
thuyết con đường trước kia chưa được truyền thuyết, là bậc tri đạo, bậc ngộ
đạo, bậc thuần thục về đạo. Này các Tỳ kheo, các vị là đệ tử thì hãy là những
vị sống theo đạo, tiếp tục thành tựu đạo.”[9]
Ở một đoạn kinh khác, một lần
nữa, Đức Phật xác định vị trí của Ngài là bậc thầy chỉ đường, bậc truyền thuyết
con đường, bậc đạo sư, chứ không phải là bậc ban ân sủng giác ngộ, giải thoát.
Cái đó phải do chính chúng ta thực hiện:
“Thế Tôn biết những gì cần biết.
Thấy những gì cần thấy. Bậc có mắt. Bậc có trí. Bậc pháp giả. Bậc thuyết giả.
Bậc truyền thuyết giả. Bậc dẫn đến mục tiêu, bậc chỉ đường bất tử. Bậc pháp
chủ. Bậc Như Lai.”[10]
Và có thể nói lời di chúc, giáo
giới của Ngài bao giờ cũng là: “Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình. Hãy
nương tựa chính mình, chớ nương tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn
đèn, dùng chánh pháp làm nơi nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác. Hãy tự
mình đốt đuốc lên mà đi. Hãy tự mình làm ốc đảo cho mình. Này Ananda, những ai
hiện nay hay sau khi ta diệt độ thực hành như thế, thời phải biết vị ấy là tối
thượng trong hàng Tỳ kheo của ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.”[11]
Để tóm gọn các nghĩa chương này,
chúng ta có thể trưng dẫn một câu Phật ngôn trong Kinh Pháp Cú thay lời kết:
“Tất cả
chúng sinh đều có khả năng thành Phật
Trong lộ
trình giác ngộ, các con hãy thắp đuốc lên mà đi
Trong
đại dương luân hồi, các con hãy tự lội vào bờ giải thoát
Các con
là hải đảo của chính mình
Đức Như
Lai chỉ là bậc Đạo sư trên nguyên tắc”.
[1] Kinh Pháp Hoa, phẩm Thí Dụ, tr. 103.
[2] Tăng Chi II, tr. 24.
[3] Tăng Chi II, tr. 154.
[4] Tăng Chi II, tr. 486.
[5] Xem thêm tr. 118 của kinh
này.
[6] Dhp.275-276.
[7] Dhp.86.
[8] Kinh đã dẫn, phẩm Như Lai
Thần Lực, tr.507.
[9] Tương Ưng III, tr. 79-80.
[10] Tương Ưng III, tr. 103.
[11]
Tương Ưng V, tr. 170.