Chương
23. Ân ái là tù ngục
I. DỊCH NGHĨA
Người bị ràng buộc bởi vợ con
nhà cửa còn nguy hại hơn ở lao ngục. Lao ngục còn có ngày được thả, tha. Hệ lụy
vợ con, thì không một ý niệm xa lìa. Một khi tâm luyến ái về sắc đẹp rồi, thì
đâu còn sợ đến gian nguy. Dẫu có phải chịu họa dưới miệng hùm, cũng đành cam
chịu. Nhào vào sắc dục, tự đắm mình trong bùn nhơ ấy, nên gọi là phàm phu. Vượt
khỏi cửa ải này, đáng là bậc xuất trần La hán.
II. LƯỢC GIẢI
Lời lẽ của Đức Phật ở chương này
thật là thâm trầm sâu sắc. Đó là phát xuất từ sự nhận chân sâu xa, từ ngôn ngữ
của giáo dục và từ thái độ trước cuộc sống. Một quy luật mà Đức Phật dạy chúng
ta cần phải sáng suốt nhìn nhận là sắc dục, vợ con, tài sản, là những yếu tố
ràng buộc con người trong vỏ ốc của tình thương cá biệt, vị kỷ. Nó làm se thắt
hoàn toàn chất liệu từ bi, một tình thương rộng lớn, bình đẳng không phân thân
sơ, không thiên hướng phục vụ cho riêng ai, mà cho tất cả với tinh thần tuệ
giác, tự nguyện. Tình thương như thế trái hẳn hoàn toàn với bản chất của tình
thương ái luyến, đam mê. Vì ái luyến đam mê mang sắc thái hệ lụy và trục lợi.
Có một lần vua Ba Tư Nặc (Pasenadi) hỏi hoàng hậu Mallika rằng, trên đời này ái
khanh yêu ai nhất (ý nhà vua muốn nói là yêu mình nhất). Mallika trả lời là yêu
tự ngã của nàng nhất. Và nàng còn cho biết, cũng không có một ai yêu đại vương
bằng chính tự ngã của đại vương Pasenadi. Nghe nói vậy, vua rất thất vọng, đến
hỏi Đức Phật, và Đức Phật cũng giải thích như hoàng hậu Mallika.[1]
Ở đây, chúng ta thấy, chính tình
yêu trai gái, tình yêu vợ chồng đã giới hạn trong tình yêu vị kỷ. Ta yêu người
khác vì muốn người khác trở thành sở hữu của mình, như vậy, chính là ta yêu cái
tự ngã của ta, yêu vì phục vụ cho tự ngã của ta, chứ không phải là do một động
lực gì khác. Do đó, tình yêu vợ chồng, hôn nhân, gia đình, con cái là một thứ
tình yêu phàm tình, thế nhân, mà người xuất gia phải thoát ly hẳn. Nhà Nho
thường nói: “Con là nợ, vợ là dây oan”, câu nói này tuy cũng phản ánh sự ràng
buộc của vợ con đối với người chồng, người cha, nhưng lại có cái nhìn kỷ thị
của phong kiến. Theo Phật giáo, vợ con không phải là yếu tố ràng buộc người
Phật tử tại gia trên mọi lãnh vực cuộc sống. Nhưng chỉ với người Phật tử xuất
gia, sự lập gia thất mới là sự ràng buộc. Vì như vậy, sự nghiệp hoằng truyền
Phật pháp ở vị ấy sẽ bị hạn chế, có thể mất đi tính nhiệt tình phụng vụ. Tình
yêu của người xuất gia có thể nói như một thi sĩ nào đó: “Ai bảo rằng tu chả
biết yêu? Tu nhân ái cảm hơn người nhiều. Bằng “bi trí dũng” yêu nhân loại. Chuyển
cuộc trần gian hết dập dìu.”[2] Ở trường hợp này, người tu sĩ yêu bằng chất
liệu Bi, Trí, Dũng để nâng đỡ, dìu dắt mọi người cùng tiến tới con đường giác
ngộ. Yêu đó, thật sự là một hạnh nguyện độ sinh khế cơ, khế lý, khác với sự hệ
lụy tình ái vợ con.
Trong các kinh Nikaya, Đức Phật
diễn tả sự luyến ái nam nữ, vợ con chỉ là tự ràng buộc trong hệ lụy đau khổ. Nó
cũng giống như hình ảnh của một con bê chưa bỏ được sữa mẹ:
“Khi nào
chưa cắt được
Ái dục
giữa gái trai
Tâm ý
vẫn buộc ràng
Như bò
con bú mẹ”.[3]
Và đương nhiên, sống trong đam
mê sắc dục vợ con, người ấy chỉ đạt đến mức độ sống tối đa là làm người lương
thiện, đạo đức, chứ không được giải thoát khỏi tam giới. Do đó, khi thân hoại
mạng chung, người ấy vẫn trôi theo dòng tái sinh của kiếp người:
“Người
tâm ý đắm say
Con cái
và súc vật
Tử thần
bắt người ấy
Như lụt
trôi làng ngủ”.[4]
Từ cái nhìn của bậc xuất ly tam
giới, huấn luyện các đệ tử xuất gia theo con đường phạm hạnh, viễn ly để phục
vụ trọn vẹn, Đức Phật khẳng định với hàng xuất gia rằng:
“Ai có
các con trai
Sầu muộn
với con trai
Người
chủ các con bò
Sầu muộn
với con bò
Sầu muộn
của con người
Chính do
sự sanh y
Ai không
có sanh y
Không
thể có sầu muộn”.[5]
Ở lời dạy trên, cũng như kinh
văn của chương này, chúng ta không được phép lý giải ở bình diện giáo dục nhân
bản, mà là giáo dục siêu nhân bản, điều kiện trở thành thánh nhân, bậc giải
thoát, không một người thân, nhưng tất cả là thân thích. Không con cái nhưng
tất cả là đệ tử, đệ tử tinh thần. Chính vì thế mà Kinh Duy Ma Cật nói rằng: “Pháp
hỷ chính là vợ. Tâm thành thật là trai. Tâm từ bi là gái. Không tịch là nhà
cửa,”[6] của Bồ Tát, và nói chung là của các Tăng sĩ Phật giáo. Vì vậy, điều
kiện tiên quyết và cần thiết đối với người xuất gia là phải độc thân như Đức
Phật đã giải thích và khuyên dạy ở câu kệ dưới đây:
“Ai nhớ
nghĩ chờ mong
Đối với
vợ và con
Người ấy
bị buộc ràng
Như cành
tre rậm rạp
Còn các
ngọn tre cao
Nào có
gì buộc ràng
Hãy sống
riêng một mình
Như tê
ngưu một sừng”.[7]
Ở Kinh Ái Sinh, Đức Phật quy tất
cả mọi sầu bi, đau khổ trên thế gian này đều có nguồn gốc từ ái. Chính từ ái,
sự yêu thương khi xa lìa nó, người ta đau khổ, khóc lóc. Con khóc cha mẹ, chồng
khóc vợ, vợ khóc chồng, một người khóc tiễn biệt mãi mãi người thân… đều do
thương yêu người quá cố. Nhưng nên nhận chân rằng: “Sự thật là như vầy, sầu,
bi, khổ, ưu não đều do ái sinh ra, hiện hữu với ái.”[8] Rồi ở Kinh Phật Tự
Thuyết, khi thiếu phụ Migara ôm trong lòng đứa con trai vừa mất nhờ Phật cứu
sống nó, Đức Phật không cứu nó, lại cứu Migara khỏi vòng ân ái, mà nhận chân sự
sống chết là một quy luật: “Này gia chủ, cái chết luôn hiện hữu và đó là thân
phận của con người. Những ai có 100 người thân yêu, những người ấy có 100 sự
đau khổ. Những ai có 90 người thân yêu, những người ấy có 90 sự đau khổ. Chỉ
đến có 1 người thân yêu thì có 1 sự đau khổ. Chỉ với ai không có người thân yêu
thì người ấy mới không có sự đau khổ. Ta nói rằng họ là người không có sầu,
không có tham đắm, ưu não.”[9]
Từ hai đoạn kinh khác, chúng ta
nhận thấy, sự hệ lụy ân ái chỉ gắn liền con người trong yêu thương và đau khổ,
điều mà người xuất gia phải từ bỏ dứt khoát ngay buổi ban đầu vào đạo. Sở dĩ
Đức Phật phải nhắc đi nhắc lại tác hại của sắc dục, ân ái thế gian nhiều lần, ở
nhiều trường độ khác nhau, là do Ngài muốn làm nổi bật tính chất cát ái từ thân
của một tu sĩ Phật giáo là vô cùng hệ trọng và cần thiết. Từ sự cát ái này,
người tu sĩ sẽ tập hợp được điều kiện tất yếu để trở thành một vị xuất gia theo
đúng nghĩa là xuất phiền não gia và xuất tam giới gia (tự mình xuất cấu uế, nên
gọi là xuất gia – Dhp.388), cũng tức là chứng đắc A la hán: “Như trăng sạch
không uế, sáng trong và tịch lặng. Hữu ái được đoạn tận. Danh gọi A la
hán.”[10] Điều này cũng chính là nội dung chính của kinh văn:
“Nhào vào sắc dục, tự đắm mình
trong bùn nhơ ấy, nên gọi là phàm phu. Vượt khỏi cửa ải này, đúng là bậc xuất
trần La hán”.
[1] Kinh Phật Tự Thuyết, Ud 46, tr. 341-342.
[2] Thích Duy Tân, Báo Giác Ngộ, số 348 tr. 6.
[3] Dhp.284.
[4] Dhp.287.
[5] Kinh Tập, kệ 34, tr. 7.
[6] Phẩm Phật Đạo, tr. 96.
[7] Kinh Tập, kệ 38, tr. 7.
[8] Trung Bộ II, tr. 421.
[9] Ud 91, tr. 393-394.
[10]
Dhp.413.