Chương
26. Thiên ma dâng ngọc nữ
I. DỊCH NGHĨA
Thiên thần dâng Ngọc nữ cho Đức
Phật, toan mưu phá tâm đạo của Ngài. Đức Phật bảo rằng:
“Cái đãy da chứa nhiều bất tịnh,
anh đem đến đây làm gì? Hãy mang đi đi. Ta không cần đến”.
Hại không được, thiên thần trở
sinh lòng cung kính, tham vấn Phật pháp. Đức Phật chỉ bày ý đạo, nhờ đó ông
chứng quả Tu đà hoàn.
II. LƯỢC GIẢI
Tìm hiểu nội dung chương này,
chúng ta nên chú ý bốn điểm sau đây:
1/ Đầu tiên chúng ta phải xác
quyết rằng bối cảnh của giai thoại này xảy ra sau khi Đức Phật thành đạo, và có
thể trong những tuần lễ đầu tiên, dưới cây Bồ đề đại thọ, khi Đức Phật đang
chần chừ trong trạng thái nửa muốn hóa độ chúng sinh vì chúng sinh đau khổ và
nửa muốn vô dư Niết bàn vì sợ chúng sinh không kham thọ nổi giáo pháp quá cao
sâu mà Ngài vừa chứng ngộ. Câu nói: “Đức Phật chỉ bày ý đạo, nhờ đó ông chứng
quả Tu đà hoàn” cho phép chúng ta khẳng định điều này. Bởi lẽ người giác ngộ
viên mãn mới khai ngộ đối tượng chứng quả (dù chỉ là sơ quả).
2/ Thiên thần: Theo Đinh Phúc
Bảo, thiên thần là dịch nghĩa của từ Phạm Thiên (Revata), Phạm Thiên là tên gọi
chung cho Đế Thích và tất cả thiên chúng.[1] Nhưng theo kinh điển thì Thích Đề
Hoàn Nhân và thiên chúng của ông rất mực ủng hộ Phật pháp. Kinh Pháp Hoa nói,
khi Đức Phật khởi ý định nhập Niết bàn, không thuyết pháp độ sinh, thì chính
ông là người đầu tiên khởi thỉnh Đức Phật chuyển pháp luân và sau đó là mười
phương chư Phật: “Xưa ta ngồi đạo tràng, xem cây cùng kinh hành, trong 21 ngày.
Ta nghĩ như vậy. Trí tuệ của ta đặng, vi diệu bậc đệ nhất. Chúng sinh các căn
chậm, làm sao mà độ đặng. Bấy giờ các Phạm Thiên, cùng các trời Đế Thích, bốn
Thiên vương hộ đời và trời Đại Tự Tại cùng các thiên chúng khác, trăm ngàn ức
quyến thuộc, chắp tay cung kính lễ, thỉnh ta chuyển pháp luân…”[2]
Do đó, thiên thần ở đây, phải là
thiên ma ngoại đạo (loại thiên ma luôn cản phá Phật đạo)[3] hay thiên ma Ba
Tuần. Cũng theo từ điển trên, thiên ma Ba Tuần còn gọi là Thiên ma hay Thiên tử
ma, tức là Ma vương của cõi trời thứ sáu có rất nhiều quyến thuộc, là những đối
tượng luôn quấy phá, làm trở ngại Phật đạo.
Theo bản chú giải của TT. Hoàn
Quan, chúng ta dễ hiểu hơn: “Thiên ma ở dục giới, thuộc cõi trời thứ sáu (tức
Tha Hóa Tự Tại Thiên) tìm cách quấy nhiễu Phật. Cõi trời này, sự thọ dụng về
ngũ dục rất là vi tế thắng diệu. Vị Thiên chủ tên là Ba Tuần cũng là vị trụ trì
năm thứ dục của dục giới. Tất cả chúng sinh ở dục giới muốn cầu được ngũ dục
tối thượng đều phải cung phụng vị này. Nhưng Phật đạo lại xuất ly dục giới, nên
bị chúng Thiên ma này ghét. Vì thế, chúng đem Ngọc nữ hiến cho Phật”.
3/ Chúng ta thấy thái độ của Đức
Phật luôn là thái độ sáng suốt. Ngài không hề bị những cám dỗ tầm thường như là
sắc đẹp “mỹ nhân kế”. Do đó, là đệ tử Ngài, tiếp nối con đường hoằng hóa của
Ngài, chúng ta cần có thái độ sáng suốt nhìn thẳng vào bản chất của mọi sự cám
dỗ, khinh bỉ nó, vượt lên trên nó, để chu toàn sứ mạng sứ giả Như Lai trong mọi
bối cảnh và mọi thời đại. Không chiến thắng mọi cám dỗ, chúng ta sẽ thất bại
trên đường hoằng hóa và ngay trong cả đời thường tu tập. Nghĩa là chúng ta “Bán
đồ nhi phế”, trở lại đời sống thế tục, vốn như một ngục tù chật chội.
4/ Sự đố kỵ, quấy nhiễu, hãm hại
của những phần tử xấu đối với người thiện, hoạt động đạo đức, có thể coi như là
một điều không thể tránh khỏi. Là kẻ xấu nên họ luôn luôn tìm hại người thiện
dưới mọi hình thức. Nhưng để quy phục những phần tử như vậy, chúng ta phải có
thái độ và cách xử sự thật sáng suốt, cứng rắn. Sáng suốt và cứng rắn ở đây
không phải là đối kháng mà là vận dụng phương tiện uyển chuyển, chuyển hóa tâm
người. Ở đây, Đức Phật phủ nhận sự bất thiện của thiên ma, nhưng không phẫn nộ
mà chỉ phản vấn để thức tỉnh thiên ma: “Cái đãy da chứa nhiều bất tịnh, anh đem
đến đây làm gì?”. Không phải là xua đuổi, mà là khuyên rất nhỏ nhẹ, ý nhị,
nhưng đầy tính thuyết phục: “Hãy mang đi đi, ta không cần đến”. Chính nhờ như
thế mà thù thành bạn, thiên ma thành người giác ngộ (chứng quả Tu đà hoàn).
Do đó, vấn đề này rất cần để
chúng ta lưu tâm, chiêm nghiệm vận dụng trong phạm vi truyền đạo của mình. Từ
bốn điểm này chúng ta đúc kết thành hai bài học:
1/ Đam mê sắc đẹp hay chạy theo
nhiều cám dỗ của nữ sắc, tất không làm nên đại sự, đại nghiệp.
2/ Nóng nảy, không khế lý, khế
cơ, tất không hóa độ được ai, nhất là những đối tượng cựu thù.
Xét về nguyên tác, kinh này được
tìm thấy trong Kinh Tập (Suttanipata) (Sn,163) từ kệ 835-847, tr. 125-127, bản
dịch của Hòa thượng Minh Châu, với tựa đề là Kinh Magandiya.
Magandiya là tác giả hiến kế
“dâng Ngọc nữ”. Bản nguyên tác không mô tả rõ vị này là ai, mà chỉ ghi lại cuộc
đối thoại bằng thi kệ giữa Đức Phật, bậc tự tại vô nhiễm, với y mà thôi. Nội
dung cuộc đối thoại (bằng thi kệ) chỉ xoay quanh vấn đề sự bất tịnh của nữ sắc,
sự chấp thủ và sự giải thoát, thăng tiến phạm hạnh là từ bỏ sự chấp thủ. Đức
Phật giải thích tường tận ba điều đó cho Magandiya, tuy nhiên bản nguyên tác
cũng không cho biết gì về sự chứng đắc như bản dịch của hai ngài Ma Đằng và
Trúc Pháp Lan. Sau đây là nguyên văn Kinh Magandiya:
Thế Tôn:
“Sau khi
thấy khát ái
Bất lạc
và tham đắm
Không
thể có ưa muốn
Đối với
sự dâm dục
Sao, với
bao đầy tràn
Nước
tiểu, phân uế này
Ta không
có ước muốn
Với thân
động chạm đó.”
Magandiya:
“Nếu
Ngài không ước muốn
Ngọc báu
như thế này
Nữ nhân
được mong cầu
Bởi rất
nhiều đế vương
Hãy nói
như thế nào
Là tri
kiến của Ngài
Giới cấm
và sinh mạng
Cùng sự
hữu phát sinh .”
Thế Tôn:
“Thế Tôn
liền trả lời
Cho
Magandiya
Với ta
không có nói
“Ta nói
như thế này”
Sau khi
quan sát kỹ
Sự chấp
thủ trong pháp
Trong
tất cả tri kiến
Ta không
có chấp trước
Ta thấy
sự cất chứa
Tịch
tịnh trong nội tâm.”
Magandiya:
“Các
lý thuyết quyết định
Ngài nói
vị ẩn sĩ
Không
nắm giữ thuyết nào
Còn về ý
nghĩa này
Của hai
chữ nội tịnh
Thế nào
bậc hiền trí
Hiểu
biết hai chữ ấy?”
Thế Tôn:
“Sao Bà
la môn ấy.”
Lại nói: “Đây sự thật.”
“Đây chính là nói láo
Để gây
tranh luận
Với si
không hề có
Bằng
nhau, không bằng nhau
Do đâu
nó có thể
Mắc vào
tranh luận được
Đoạn tận
mọi nhà cửa
Sống làm
kẻ không nhà
Ẩn sĩ
không thân thiết
Với một
ai ở làng
Trống
không các dục vọng
Không
xem trọng sự gì
Không
nói chuyện tranh luận
Với một
ai ở đời
Vị ấy
sống viễn ly
Mọi sự
việc ở đời
Bậc long
tượng không chấp
Và không
nói đến chúng
Như hoa
sen có gai
Sinh ra
ở trong nước
Không bị
nước và bùn
Mắc dính
và thấm ướt
Như vậy
bậc ẩn sĩ
Nói an
tịnh, không tham
Không bị
dục và đời
Mắc dính
và thấm ướt
Bậc trí
không do kiến
Cũng
không do thọ tưởng
Đi đến
sự kiêu mạn
Không có
tham dự vào
Không để
cho hành động
Cho
truyền thống dắt dẫn
Không để
bị chi phối
Trong
trú xứ của ý
Người
không ưa thích tưởng
Không có
bị trói buộc
Vị được
tuệ giải thoát
Không có
sự si mê
Và không
ai chấp thủ
Tư tưởng
và tri kiến
Người ấy
sống xung đột
Với mọi
người ở đời.”
[1] Phật học đại từ điển, tr. 471.
[2] Phẩm Phương Tiện, tr. 87.
[3]
Phật học đại từ điển, tr.
477.