Chương
29. Đoạn trừ tâm ái dục – duy trì phạm hạnh
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: “Này các Tỳ
kheo, phải dè dặt chớ ngó nhìn nữ sắc cũng như không nên tiếp chuyện với họ.
Nếu có phải nói chuyện thì hãy chánh tâm suy nghĩ: “Ta là một vị sa môn sống
trong cuộc đời bất tịnh, phải như hoa sen, sinh trưởng từ bùn nhưng không bị
bùn làm nhơ uế. Các thầy phải có cái nhìn viễn ly. Xem người già cả như mẹ,
người lớn hơn như chị, người nhỏ hơn như em, nhỏ hơn nữa như con cháu. Phải
nhìn nữ sắc dưới khía cạnh “độ thoát họ” mới tiêu diệt được các ác niệm.
II. LƯỢC GIẢI
Ái dục là nguyên nhân chính của
sinh tử luân hồi.
Ái dục là quả bom tàn phá đạo Bồ
đề giải thoát.
Diệt trừ được ái dục là chặn
đứng sự luân hồi, mở cửa giải thoát.
Cũng vì thế, người tu theo đạo
giải thoát phải đoạn trừ tâm hệ lụy ái dục, từ bỏ ái dục và đoạn trừ ái dục. Ái
dục, có thể nói là sự đam mê hệ lụy, nó không loại trừ đối tượng nào, dù đó là
tuổi tác, tông tộc. Do đó, muốn đoạn trừ nó, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng
phương pháp thích hợp nhất cho từng trường hợp cụ thể. Và phương pháp cụ thể đó
được Đức Phật đề cập ở chương này, đó là luôn đề khởi chánh niệm trong giao tế
với người khác phái nói chung. Vì từ giao tế, tình cảm dễ sinh. Tình cảm đã
phát sinh sẽ dễ dẫn đến đời sống phi phạm hạnh. Như vậy có chánh niệm trong
giao tế, tiếp xúc với người khác phái, được xem như là phương pháp tối ưu để
đoạn tận tâm ái dục, ái luyến.
1.- Xét về
xuất xứ nguyên gốc, thì chương này được viết gọn lại từ Kinh Bharadvaja
(S.iv.110) trong Tương Ưng Bộ Kinh tập 4 tr. 119 và 122, và có thay đổi một vài
chi tiết cần thiết để kinh văn gãy gọn, súc tích, dễ gây ấn tượng, dễ nhớ hơn.
Và cũng đã bỏ bớt phần nguyên nhân nói kinh và phần khuyến giới tu tập.
Trong phần nguyên nhân nói kinh,
không phải Đức Phật dạy chúng Tỳ kheo theo lối vô vấn tự thuyết, mà là do vua
Udana hỏi tôn giả Pindola Bharadvaja về cách các Tỳ kheo trẻ tuổi làm thế nào
để bảo vệ phạm hạnh viên mãn: “Thưa tôn giả, do nhân gì, duyên gì, những Tỳ
kheo trẻ tuổi, ngay lúc là thanh xuân, tóc đen nhánh, lại không tham nhiễm dục
vọng, thực hành phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến trọn đời và sống toàn
thời gian một cách hoàn mãn”. Lúc ấy, tôn giả Pindola Bharadvaja mới trả lời
bằng cách nhắc lại lời dạy của Đức Phật đến chúng Tỳ kheo: “Thưa đại vương, Thế
Tôn đã dạy các vị ấy như sau, hãy đến này các Tỳ kheo (thiện lai Tỳ kheo), đối
với người nữ đáng mẹ hãy trú tâm là người mẹ. Đối với người nữ tuổi đáng chị
hãy trú tâm là người chị. Đối với người nữ tuổi đáng em hãy trú tâm là người
em. Đối với người nữ chỉ là con gái hãy trú tâm là con gái (con cháu). Thưa đại
vương, đây là nhân, là duyên các Tỳ kheo trẻ tuổi, đang tuổi thanh xuân lại
không tham nhiễm dục vọng, thực hành phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh cho đến
trọn đời và sống toàn thời gian một cách hoàn mãn”.
Trong nguyên tác, tôn giả
Bharadvaja còn kể thêm ba phương pháp để chế ngự tâm tham ái: Quán bất tịnh ở
người nữ, không nắm tướng chung tướng riêng của người nữ và khéo phòng hộ tam
nghiệp.
Về quán bất tịnh, cách quán như
sau: “Hãy quán sát thân này, từ bàn chân trở lên, trên từ đảnh tóc trở xuống,
bao bọc bởi da và chứa đầy bất tịnh sai biệt. Trong thân này, đây là tóc, lông,
răng, móng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách,
phổi ruột, bao tử, phân, mật, đàm, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, máu mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu. Đây là nhân, đây là duyên…
- Về hộ trì các căn, nội dung
như sau: “Hãy sống hộ trì các căn. Sau khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi
ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm
giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì vì ý căn không được chế ngự khiến tham ái
ưu bi, các bất thiện pháp khởi lên hãy thực hành nguyên nhân chế ngự các căn
ấy. Đây là nhân, đây là duyên”.
- Về phòng hộ tam nghiệp, nguyên
tác chỉ rõ: “Với thân được phòng hộ, với lời nói được phòng hộ, với tâm được
phòng hộ, với niệm được an trú, với các căn được chế ngự, trong khi ấy, tham
pháp sẽ không chinh phục”.
Ở đây, kinh văn của chương này
đã được hai dịch giả Ma Đằng, Trúc Pháp Lan lược bớt, chỉ chừa lại phương pháp
trừ khử dục tâm, ái luyến tâm đầu tiên, tức là chánh niệm đối với người khác
phái, để có cái nhìn viễn ly, giải thoát, tuy ngắn gọn, nhưng cũng không làm
mất đi tính đa dạng phong phú trong phương pháp tu tập.
2.- Cách dứt trừ tâm ái nhiễm
Phương pháp đoạn trừ tâm ái
nhiễm được nêu lên ở đây là hạn chế tối đa sự quan sát, dòm ngó, để ý về nữ
sắc. Vì chính từ quan sát, dòm ngó, để ý, chúng ta sẽ dẫn tâm thiên hướng về
đam mê nữ dục. Và như vậy là bất hạnh, đau khổ. Do đó, không dòm ngó nữ sắc là
phương pháp đầu tiên để ngăn chặn tâm ái nhiễm. Nhưng trong thực tế, người tu
sĩ không thể tách rời các hình thái sinh hoạt với xã hội, cũng phải gia nhập
vào các dạng thức sinh hoạt, vì thế việc nhìn thấy nữ sắc là không thể tránh
khỏi. Nhưng khi nhìn thấy, hoặc sinh hoạt chung một môi trường, sự tiếp xúc,
giao lưu, đối thoại muốn không bị chất ái nhiễm chi phối, người tu sĩ phải tự
hạn chế tối đa theo điều kiện có được. Và khi phải trực diện đối thoại, người
tu sĩ phải nhiếp tâm chánh niệm, không tác ý liên hệ ái dục. Nhưng cũng có lẽ
với phương án sau cùng này được xem là hợp lý nhất và có hiệu quả chặn đứng và
dứt trừ tâm ái nhiễu. Bởi vì, chính tác ý về ái dục là nhân tố quyết định sự hệ
lụy ái dục, như đoạn kinh văn dưới đây xác định:
“Một người nữ tác ý nơi nữ căn,
nữ hành, nữ y phục, nữ loại, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức. Người ấy tham đắm
trong ấy. Cũng vậy, do tham đắm, tác ý đến nam căn ở ngoài, nam hành, nam y
phục, nam loại, nam dục, nam thanh, nam trang sức… do tham đắm thích thú trong
ấy, nữ nhân ước muốn có sự hệ lụy ở ngoài. Do hệ lụy khởi lên lạc. Nữ nhân do
ước muốn hỷ lạc ấy, do thích thú trong nữ tính của mình mà dẫn đến hệ lụy với
các người đàn ông. Như vậy, nữ nhân không thoát khỏi nữ tính của mình.”[1]
Cũng chính vì sự tác ý tà vạy
đến nữ căn, nữ hành, nữ y phục, nữ dục, nữ thanh, nữ trang sức (và người nữ thì
ngược lại) mà ái dục đã phát sinh và phá hủy luôn cả hàng rào tuổi tác, luân lý
đạo đức: con cái quan hệ tình dục với cha mẹ, hoặc tuổi đáng con cháu lại quan
hệ tình dục với người đáng tuổi cha mẹ. Điều này thông qua báo chí, thông tin
đại chúng, chúng ta biết khá đầy đủ. Ngay cả thời Đức Phật còn tại thế, trong
hàng ngũ Tăng già, có một lần hai mẹ con là Tỳ kheo ni và Tỳ kheo tăng đã đi
đến thông dâm loạn luân với nhau vì tác ý tà vạy.
“Một thời Đức Thế Tôn ở Savatthi
tại Tetavana, lúc bấy giờ cả hai mẹ con cùng an cư vào mùa mưa, nhân danh Tỳ
kheo ni và Tỳ kheo tăng, họ thường xuyên muốn thấy mặt nhau. Mẹ thường xuyên
muốn thấy mặt con. Con cũng thường xuyên muốn thấy mặt mẹ. Vì luôn thấy mặt
nhau nên có sự liên hệ. Do liên hệ nên thân mật. Do thân mật nên sa ngã. Do sa
ngã, nên buông bỏ sự học tập, làm lộ liễu sự yếu đuối, chúng rơi vào thông dâm
với nhau.”[2]
Và rồi câu chuyện ấy đến tai Đức
Phật. Đức Phật nhân đó dạy rằng: “Này các Tỳ kheo, kẻ ngu si mới nghĩ rằng, mẹ
không thông dâm, không tham đắm con, con không thông dâm, không tham đắm mẹ. Ta
không thấy một sắc nào lại khả ái như vậy, lại đẹp đẽ như vậy, lại mê ly trói
buộc như vậy, say sưa chướng ngại như vậy, tức là sắc đẹp của nữ nhân. Nhưng ai
ái luyến, tham nhiễm, tham đắm, mê say sắc đẹp của nữ nhân, chúng sẽ ưu sầu lâu
dài và rơi vào uy lực của nữ sắc.”[3] Do đó, có thể nói cách dứt trừ tâm ái
nhiễm, ái dục mà kinh này đưa ra thật là khoa học và hữu hiệu, nó chặn đứng ái
nhiễm từ gốc rễ, từ lúc ái nhiễm chưa phát sinh, lại còn đề cao giá trị nhân
cách của chính mình.
Ngoài ra, có những trường hợp,
người tu sĩ tuy không đi quá đà trong giao tế với người khác phái như phạm Ba
la di hay Tăng tàn, nhưng lại thích thú được người khác phái hầu hạ thoa bóp…
cũng được xem là làm cho phạm hạnh có tỳ vết và không trọn vẹn, như đoạn kinh
văn dưới đây, Đức Phật đã dạy:
“Có sa môn, Bà la môn tự xem
mình sống phạm hạnh một cách chân chính tuy không có hành dâm với nữ nhân nhưng
hưởng thụ được nữ nhân thoa bóp, tắm, xức dầu. Vị ấy thích thú, ước muốn, bị
kích thích bởi nữ nhân. Đây gọi là phạm hạnh bị bể vụn, bị khuyết phạm, bị
nhiễm ô, bị điểm chấm. Đây gọi là hành phạm hạnh không thanh tịnh, bị liên hệ,
hệ lụy với dâm dục, không giải thoát khỏi sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ
não.
Lại nữa, có sa môn, Bà la môn tự
xem mình sống phạm hạnh một cách chân chính, tuy không hành dâm với nữ nhân,
không có hưởng thụ nữ nhân xoa bóp, tắm, xức dầu nhưng cười giỡn chơi đùa, vui
chơi với nữ nhân, lấy mắt nhìn mắt, trừng mắt theo nữ nhân, lắng nghe tiếng
cười, tiếng khóc, tiếng hát của nữ nhân, hoặc ký ức, tưởng tượng về chúng. Tất
cả làm người ấy bị ước muốn bất thiện kích thích. Đây gọi là phạm hạnh có tỳ
vết, ta nói rằng không thoát khỏi khổ.”[4] Sở dĩ, Đức Phật cho rằng những điều
trên là phi phạm hạnh là vì nó sẽ là nhịp nối sự phá hủy phạm hạnh ở tương lai,
và làm Tỳ kheo rơi vào nếp sống phàm tục.
Trong kinh, Đức Phật còn đặt Tỳ
kheo trong chiến trường diệt trừ tâm ái dục, duy trì phạm hạnh giải thoát. Nếu
như trong quân sự có năm loại chiến sĩ yếu đuối thấy bụi mù tung khói, thấy cờ
xí dựng lên, nghe tiếng la hét, khi bị thương đã chùn chân, rủn chí không can
đảm xông pha chiến trận thì Tỳ kheo khi tiếp đối với nữ nhân cũng vậy:
“1/ Tỳ kheo khi thấy bụi mù đã
run chân trong đời sống phạm hạnh, biểu lộ sự yếu đuối trong học tập, từ bỏ học
pháp, trở lại đời sống thế tục. Bụi mù được hiểu với nghĩa “khi nghe ở một nơi
nọ có một phụ nữ, thiếu nữ xinh đẹp, khả ái làm đẹp lòng người với gương mặt
hấp dẫn như hoa sen.”
2/ Tỳ kheo khi thấy cờ xí dựng
lên… đã trở lui đời sống thế tục. Cờ xí ở đây được hiểu với nghĩa khi tình cờ
giáp mặt, mục kích người phụ nữ, thiếu nữ đẹp đẽ… như hoa sen.
3/ Tỳ kheo khi nghe tiếng la
hét… đã trở lui đời sống thế tục. Tiếng la hét ở đây được hiểu với nghĩa, nhân
có phụ nữ, thiếu nữ cười giỡn, trêu ghẹo, nói mơn trớn, nói cười lớn tiếng với
Tỳ kheo.
4/ Tỳ kheo khi bị thương trong
chiến trường… đã trở lui đời sống thế tục. Bị thương được hiểu với nghĩa, khi
nữ nhân ngồi cạnh bên vuốt ve mơn trớn ở những khuôn viên sầm khuất vắng người.
5/ Tỳ kheo chiến thắng… chiến
thắng được hiểu với nghĩa Tỳ kheo không bị cám dỗ, chi phối. Mạnh dạn tháo gỡ
ân ái và ra đi những nơi nào mình muốn không để bị hệ lụy ân ái.”[5]
Bốn loại Tỳ kheo chiến sĩ đầu sở
dĩ dẫn đến phạm hạnh tỳ vết là do không có chánh tâm về nữ sắc, tác ý liên hệ
đến nữ sắc theo hướng hệ lụy, nên dẫn đến phá hủy phạm hạnh. Hạng Tỳ kheo thứ
năm được gọi là người chiến thắng, bảo vệ phạm hạnh trong sáng là do dám vứt bỏ
mọi tác ý bất thiện về nữ nhân, biết tìm cho mình nơi thích hợp để bảo toàn
phạm hạnh. Hạng Tỳ kheo này là mục đích hướng đến của tất cả tu sĩ chúng ta.
***
Nói tóm lại, để duy trì phạm
hạnh sạch như băng tuyết, người tu sĩ phải biết quan sát, đề khởi chánh tâm.
Hạn chế sự dòm ngó, để ý, liên hệ giao tiếp, ngôn đàm với người khác phái. Và
khi phải liên hệ, giao tiếp, ngôn đàm, thì phải chánh niệm tỉnh thức. Phải có
cái nhìn bất tịnh quán về nữ nhân để nhờm gớm mặt trái của sắc dục. Phải có ý
chí giữ gìn sáu căn, không nắm tướng chung tướng riêng của nữ nhân để khỏi tác
ý liên hệ đến dục nhiễm. Phải có cái nhìn nam nữ như nhau, không phân biệt nữ
tính nam tính để xóa bỏ tâm ái luyến. Phải có cái nhìn thân thuộc như cha mẹ,
anh chị em, con cháu để diệt trừ tâm dục nhiễm. Và phải có cái nhìn độ thoát,
đặt mình trong vị trí đạo sư, không thể tầm thường, ngang hàng như tình bạn hay
tình yêu trai gái. Được như vậy, phạm hạnh sẽ thanh tịnh, hoàn bị và hẳn nhiên
nhờ đó mà viễn ly giải thoát.
[1] Tăng Chi II, tr.484.
[2] Tăng Chi II, tr. 74.
[3] Kinh đã dẫn.
[4] Tăng Chi II, tr. 482.
[5]
Tăng Chi II, tr. 94-98.