Chương 6.
Phỉ báng thiện và ác quả dị thục
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Người ác nghe
ai làm điều thiện thường đến nhiễu loạn. Vì vậy, các anh em hãy xem như không
có gì, không nên tỏ thái độ giận dữ, mắng trách lại. Kẻ nào mang ác đến sẽ hứng
chịu điều ác đó.
II. LƯỢC GIẢI
Như chúng ta đã biết, thiện ác
là một cặp phạm trù mang tính đạo đức. Chúng tương phản nhau, không dung chứa
nhau. Một việc làm gọi là thiện, là vì nó đi ngược lại những mục đích xấu xa,
tội lỗi. Một việc làm gọi là ác, vì nó chỉ củng cố cho sự lợi ích bất chính của
một đối tượng nào đó mà đối tượng này luôn bị dư luận chân chính của xã hội lên
án. Do đó, trên cơ bản, thiện và ác mâu thuẫn nhau, đối kháng nhau, để tranh
giành vị trí tồn tại. Nhưng vì “vọng tình dị tập, chí đạo nan văn”, nên trong
thực tế, những hiện tượng xấu xa, tồi tệ luôn có khuynh hướng chiếm lĩnh và
thao túng phần lớn con người hơn là những hiện tượng đạo đức.
1.- Phần đông việc làm thiện là
hiện tượng phổ biến tất yếu:
“Người ác nghe ai làm điều thiện
thường đến nhiễu loạn”. Sự nhiễu loạn, cản phá điều thiện, người làm thiện của
những phần tử xấu trong xã hội được xem như một hiện tượng mang tính quy luật.
Bởi vì, kẻ ác luôn muốn mình chiếm vị trí độc tôn. Để thực hiện ước muốn này,
nó phải hoạt động chống đối thiện, hủy hoại thiện. Ở các kinh, Đức Phật cho
biết, nếu những nhà hoạt động đạo đức, truyền dạy chân lý, thiện hóa nhân tâm
được sự đồng tình ủng hộ, tán thán từ các đối tượng tiến bộ, thì ngược lại, họ
phải đương đầu, chạm trán và hứng chịu biết bao sự bất hạnh từ những phần tử
xấu ác chống đối.
“Những
người hay khuyên dạy
Ngăn
người khác làm ác
Được
người hiền kính yêu
Bị người
ác không thích.”[1]
Bản thân Đức Phật có thể nói là
điển hình nhất. Trong công cuộc hoằng hóa, chu du khắp xứ Ấn, Đức Phật đã phải
hứng chịu tất cả sự chống trả, hiềm hại của những người ngoại đạo. Thậm chí,
ngay cả Đề Bà Đạt Đa, vừa là em chú bác, vừa là đồ đệ của Ngài, vì ảo vọng
thống trị Tăng đoàn đã bày mưu lập kế ám sát Ngài nhiều lần. Đặc biệt là các
ngoại đạo Ni Kiền Tử, vì tật đố trước những thành quả trong công cuộc truyền
đạo của Đức Phật, đã tổ chức nhiều cuộc mưu sát và vu khống Đức Phật nhưng vẫn
không thành công. Những trở ngại duyên này được Đức Phật tự thuật trong kệ Pháp
Cú như sau:
“Ta như
voi giữa trận
Hứng
chịu cung tên rơi
Chịu
đựng mọi phỉ báng
Ác giới
rất nhiều người.”
Rõ ràng, chúng ta thấy đối tượng
chủ yếu chống phá Đức Phật, chống phá đạo đức là những kẻ Ác giới. Trong Kinh
Tăng Chi, Đức Phật còn cho biết cụ thể hơn, đối tượng ác giới này là những phần
tử độc ác, sân hận, hay sống với những lý tưởng với các đức tin tà kiến của họ:
“Này các Tỳ kheo, có hai hạng
người phỉ báng chống đối Như Lai. Người độc ác với tâm đầy sân hận. Hay người
sống với lòng tin tà kiến.”[2]
Nói chung, sự phỉ báng,
chống phá thiện của những phần tử ác độc lại gây phản tác dụng làm cho chúng tự
đưa chúng vào đường cùng ác độc và tội lỗi.
2.- Vượt lên trên thị phi, tán
thán và khiển trách, thái độ của Đức Phật trong kinh là thái độ tuyệt vời nhất,
dạy chúng ta khi đứng trước những dư luận bất chính, chống phá đạo đức là hãy
nên bất chấp để vượt lên trên nó. Chống đối, đương đầu lại với sự chống đối tà
vạy (dù là vì mục đích thiện), thông thường, không có lợi cho cả hai, bởi lẽ,
“kẻ phản thiện chống đối”, khi bị chống đối lại sẽ càng chống phá thiện nhiều
hơn. Hiểu rõ tâm lý phổ biến ấy, trong rất nhiều trường hợp gặp phải sự chống
đối, Đức Phật vẫn giữ được thái độ bình thản, không chao động, ngay cả khi được
khen cũng vậy: “Như tảng đá vững chắc, không lay động trước gió. Cũng vậy,
người trí thản nhiên trước sự tán dương hay khiển trách.”[3] Do đó, không có gì
phải dao động khi bị chỉ trích hay được tán dương.
Người đời đã từng ta thán:
“Ở sao
cho vừa lòng người
Ở rộng
người cười, ở hẹp người chê”
“Béo chê
béo trục, béo tròn,
Gầy chê
xương sống, xương sườn lòi ra”.
Và cái tính chúng sinh đó, Đức
Phật càng thấy rõ hơn:
“Xưa vậy
nay cũng vậy
Ngồi im
bị người chê
Nói
nhiều bị người chê
Nói vừa
cũng bị chê
Làm
người không bị chê
Khó tìm
được ở đời.”[4]
Chính vì phỉ báng hay tán dương
đều là những hiện tượng khó tránh khỏi cho nên người học không nên nao núng,
chao động khi gặp phải chướng ngại duyên: “Vì vậy, các anh em hãy xem như là
không có gì, không nên tỏ thái độ giận dữ hay mắng trách lại”. Ở lời dạy này,
ta thấy ngời sáng thuật xử thế lợi ích cho cả hai. Một là người bị chỉ trích
vẫn cảm thấy bình thản vì biết cách vô hiệu hóa mọi cuộc tấn công của đối
phương. Hai là bản thân kẻ xấu sẽ cảm thấy trơ trẽn, cụt hứng mà phản tỉnh, ăn
năn. Thái độ xử trí như vậy có hiệu quả giáo dục cao, rất đáng trân trọng.
Cũng thế, lời dạy trên còn hàm ý
giáo dục chúng ta vô hiệu hóa cả những lời tán dương, vì những lời tán dương
chưa hẳn có lợi cho ta về mặt tu tập, diệt trừ sự ngạo mạn:
“Khác
thay duyên thế lợi
Khác thay
đường Niết bàn
Tỳ kheo
đệ tử Phật
Hãy như
vậy thắng tri
Chớ ưa
thích khen ngợi
Hãy tu
hạnh viễn ly.”[5]
Ở các kinh, lập trường trước sau
của Đức Phật vẫn là đề cao trí tuệ. Đức Phật không màng đến hư danh, vì nó
không có lợi cho giải thoát. Câu kim ngôn này cho ta thấy điều đó: “Ít có giá
trị, này các Tỳ kheo, là tăng trưởng danh vọng, tăng trưởng lời khen.”[6] Chỉ
có trí tuệ mới là đáng kể chớ không phải là hư danh. Chính vì thế, mất mát trí
tuệ mới là đáng tiếc: “Ít có giá trị, này các Tỳ kheo, là mất mát danh tiếng.
Cái này là khốn cùng giữa các mất mát tức là mất mát trí tuệ.”[7]
Ở một lần khác, Đức Phật bảo kẻ
nào tham muốn danh vọng sẽ bị chỉ trích: “Ưa muốn được tán thán, này các Tỳ
kheo, sẽ không được các đồng phạm hạnh ái mộ nhưng chỉ là phê bình, chỉ trích”.
Thế nên, trong công tác thiện
ích hay trong công cuộc xây dựng đạo đức, người làm thiện phải có cái nhìn vô
hiệu hóa tất cả những lời chê bai lẫn những lời tán tụng. Vì chê bai hay tán
dương đều là tâm lý chung của hạng phàm phu, phát xuất từ nhận định chủ quan,
thành kiến, không phản ánh chính xác chân tướng của ta, không thể đối trị được
với cái bệnh ngã chấp nặng nề của chúng sinh. Do đó, chúng ta không nên để cho
chúng tác động được đến ta. Hơn thế nữa, chúng ta cần nhận chân rằng, làm người
thì không tránh khỏi thị phi, không ai vừa lòng ai một cách hoàn toàn, cũng
không có ai bị chỉ trích mọi mặt.
Dưới lăng kính nhận thức, con
người là một hợp thể gồm một mảng sự tán thán và mảng còn lại là sự khiển
trách. Nhận chân như vậy, chúng ta hãy mạnh dạn vượt lên trên thị phi của thế
tục:
“Xưa, vị
lai và nay
Đâu có
sự kiện này
Người
hoàn toàn bị chê
Người
trọn vẹn được khen.”[8]
3.- Câu cuối của lời dạy
này: “Kẻ nào mang ác đến sẽ hứng chịu điều ác đó”, cho thấy tính chính xác của
nhân quả báo ứng và sự nghiêm minh, vô tư của luật nhân quả sẽ trừng phạt thích
đáng những kẻ nhiễu loạn người làm thiện. Chính đây là cơ sở nền tảng để người
làm thiện an tâm hành thiện mà không phản kháng lại những kẻ ác, hay những lời
chỉ trích, dèm pha. Chính bản thân cái xấu của kẻ ác sẽ nguyền rủa, lên án kẻ
ác như kẻ thù ghê tởm, mà kinh thường gọi là mất nhân cách hay phi chân nhân:
“Này các Tỳ kheo, mất nhân cách
hay phi chân nhân là người dầu không hỏi, nói lên lời cực đoan chỉ trích người
khác, còn nói gì nếu được hỏi.”[9]
Rồi một lần khác, Đức Phật còn
phân tích tỉ mỉ những tác hại đem đến cho “kẻ ác nghe ai làm điều thiện đến
quấy nhiễu, phỉ báng” là ngu si, vụng về, phạm tội và bị mọi người chỉ trích:
“Không suy tư, không thẩm sát, tán thán người, không xứng đáng được tán thán.
Và chỉ trích người xứng đáng được tán thán. Do thành tựu hai pháp này, này các
Tỳ kheo, kẻ ngu, vụng về, không phải chân nhân, tự mình xử sự như một vật mất
gốc, bị thương tích, phạm tội, bị người trí quở trách và tạo nên nhiều điều vô
phước.”[10]
Đề cập đến tác hại lâu dài của
ác nghiệp “phỉ báng bậc hiền lương”, chống đối đạo đức con người, Đức Phật còn
khẳng định, ác nghiệp này sẽ dẫn kẻ ác tái sinh vào tam ác đạo để chịu khổ quả
dị thục nhiều đời:
“Không suy xét, không thẩm sát,
tán thán người không đáng tán thán, chỉ trích người đáng được tán thán, đặt
lòng tin vào những chỗ không đáng để tịnh tín… thành tựu các pháp này, kẻ như
vậy, tương xứng bị sinh vào các ác đạo.”[11]
Lời khẳng định này hoàn toàn phù
hợp với Kinh Pháp Cú:
“Nay than,
đời sau than
Làm ác
hai đời than
Nó than
“ta làm ác”
Đọa cõi
dữ, than hơn.”[12]
Nói tóm lại, toàn văn của chương
này tuy ngắn gọn, chưa đầy 50 chữ, mà lại chứa đựng cả một cẩm nang hoằng hóa
và xử thế. Bố cục lời dạy trên rất rõ ràng, mạch lạc, liên kết từng ý, từng lời
với nhau. Đầu tiên, Đức Phật cho biết tính tất yếu như một quy luật về hiện
tượng “chống phá lại việc làm thiện” bởi những phần tử thoái hóa, biến chất
trong xã hội. Kế đến, Đức Phật khuyên chúng ta không nên có thái độ đối kháng,
chống trả lại những phần tử như vậy mà hãy nêu cao lập trường chân chính của
mình. Sau cùng, Đức Phật cho biết, nhân quả báo ứng là cán cân công lý, tự nó
trừng phạt đích đáng những phần tử phản động thiện. Và chính cán cân nhân quả
này mới là bài học hữu hiệu để giáo dục người ta từ bỏ điều ác, làm điều lành.
Nhìn chung nội dung của kinh
văn, Đức Phật dạy chúng ta cần phải có thái độ bình thản, không dao động trước
những lời tán dương hay khiển trách của những kẻ ác. Hãy vô hiệu hóa sự thị phi
để củng cố lập trường đạo đức, không phản kháng, chống trả, mắng chửi kẻ ác, vì
điều ác sẽ tự trừng phạt kẻ ác độc.
[1] Dhp.77.
[2] Tăng Chi I, tr. 72.
[3] Dhp.81.
[4] Dhp.227.
[5] Dhp.75.
[6] Tăng Chi II, tr. 437.
7 Kinh đã
dẫn.
[8] Dhp.228.
[9] Tăng Chi I, tr. 445.
[10] Kinh đã dẫn, tr. 103, 351.
[11] Tăng Chi II, tr. 147.
[12]
Dhp.17.