Chương
32. Diệt ái dục, ly sinh tử
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Người từ ái
dục sinh lo, từ lo sinh sợ. Xa lìa ái dục, chẳng có gì để lo, chẳng có gì để
sợ!
II. LƯỢC GIẢI
1/ Xuất xứ của bài kinh này được
tìm thấy trong Kinh Pháp Cú kệ số 212-216. Mỗi bài kệ trong năm kệ đều có nội
dung tương tự: ái, ái luyến, hỷ ái, tham ái và dục ái: “Do ái sinh sầu ưu. Do
ái sinh sợ hãi. Ai thoát khỏi tham ái. Không sầu, đâu sợ hãi.”[1] “Ái luyến
sinh sầu ưu. Ái luyến sinh sợ hãi. Ai giải thoát ái luyến. Không sầu, đâu sợ
hãi.”[2] “Tham ái sinh sầu ưu. Tham ái sinh sợ hãi. Ai thoát khỏi tham ái.
Không sầu, đâu sợ hãi.”[3] “Dục ái sinh sầu ưu. Dục ái sinh sợ hãi. Ai giải
thoát dục ái. Không sầu, đâu sợ hãi.”[4] Cả năm bài kệ đều khẳng định dục ái ở
mọi mức độ nhiễm đắm của nó, đều dẫn khởi “sự sầu ưu” rồi “sợ hãi”. Sầu ưu là
mức độ ban đầu của tác hại ái dục, mức độ sau là sợ hãi: sợ hãi ác nghiệp, quả
dị thục hiện bày. Và cả năm bài đều nhấn mạnh tổ chức giải thoát ái dục là giải
thoát mọi ưu sầu. Ưu sầu hết thì không còn gì là sợ hãi “không sầu, đâu sợ
hãi”.
2/ Lời dạy của Đức Phật trong
Kinh Pháp Cú được kinh văn 42 chương đúc kết thành một bài tổng hợp, còn nhằm
khuyến giới, giáo dục hàng phạm hạnh tu sĩ hãy duy trì trọn vẹn phạm hạnh, đừng
bị bể vụn, sứt mẻ, tỳ vết… vì phá vỡ phạm hạnh là chiêu vời sợ hãi, không thoát
khỏi sinh tử. Do đó, để thực hiện mục đích ly tham, người tu sĩ phải xa lìa
dục, chinh phục, chế ngự nó:
“Người
bị dục buộc ràng
Vùng vẫy
và hoảng sợ
Như thỏ
bị sa lưới
Do vậy
vị Tỳ kheo
Mong cầu
mình ly tham
Nên
nhiếp phục ái dục.”[5]
Song đối với các hành giả chuyên
tâm định tĩnh, tu tập, trau dồi thiền định, Đức Phật cũng khuyến khích họ từ bỏ
mãi mãi sự đắm say các dục hạ liệt, ví sánh nó như hòn sắt nóng cháy đỏ, ai đam
mê tất phải bị chúng thiêu đốt.
“Tỳ kheo hãy tu thiền. Chớ buông
lung phóng dật. Tâm chớ đắm say dục. Phóng dật, nuốt sắt nóng. Bị đốt chớ than
khổ.”[6]
Giáo giới của Đức Phật đối với
hàng phạm hạnh Tỳ kheo luôn là khuyên bỏ ái dục. Nếu như ái dục là mạng lưới
trói buộc con người trong vòng sợ hãi thì hẳn rằng sống trong vòng ái triền
phược, người ấy phải thọ khổ triền miên: “Người bị ái buộc ràng. Vùng vẫy và
hoảng sợ. Như thỏ bị sa lưới. Chúng sinh, ái trói buộc. Chịu khổ đau dài
dài.”[7]
3/ Thâm ý giáo dục của kinh văn còn
nhằm xác quyết giá trị giải thoát, tu chứng của hành giả đã đoạn tận được dục
lậu, phiền não. Sự đoạn tận ái dục chính là sự thành tựu quả Bồ đề, thanh tịnh,
giải phóng mọi đau khổ:
“Ly ái, không nhiễm ô. Nhổ mũi
tên sinh tử”.
Hay: “Ái diệt thắng mọi khổ”.
Hay: “Ái diệt tự giải thoát”.
Hay: “Ái lìa, không chấp thủ”.
Ở một bài kệ, Đức Phật xác quyết
điều kiện trở thành bậc Bộc lưu (tức sơ quả) không gì hơn là đoạn tận ái dục:
“Tỳ kheo vượt năm ái, xưng danh vượt bộc lưu”. Xa hơn nữa, Đức Phật còn dạy, con
thuyền hướng đến Niết bàn phải là con thuyền đã tát cạn nước ái dục trong mạn
thuyền: “Tỳ kheo tát thuyền này. Trừ tham diệt ái dục. Thuyền không, đi nhẹ đi
mau. Tất chứng đạt Niết bàn”.
Khi định phẩm, phân vị giá trị
đạo đức, nhân cách của một vị Bà la môn, theo quan điểm mới của Đức Phật (khác
với quan niệm truyền thống của Veda) là vị ấy phải đoạn tận sức sống ái dục như
nước không còn bám víu được trên lá sen, hay hạt cải không đứng được trên đầu
cây kim nhọn:
“Như nước trên lá sen. Như hạt
cải đầu kim. Người không nhiễm ái dục. Ta gọi Bà la môn.”[8]
Trong Kinh Pháp Cú, không chỉ có
phẩm Hỷ ái (kệ 109-220), phẩm Tham ái (kệ 383-359) đề cập đến ái dục, mà ngay
cả phẩm Bà la môn (kệ 383-423) cũng đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của ái
dục. Sự xác quyết của Đức Phật về một Bà la môn theo quan điểm mới, trước sau
vẫn là đoạn tận ái dục. Bà la môn mà đoạn tận được ái dục quả là một thành quả
lớn lao, có giá trị: “Đối với Bà la môn. Đây không lợi ích nhỏ. Khi ý không ái
dục. Tâm hại được chặn đứng. Chỉ khi ấy khổ diệt”.
Hình ảnh của Bà la môn còn được
Đức Phật sánh với trăng tròn sáng, không cấu uế mây mù, khi ở nội tâm vị ấy đã
hoàn toàn thanh tịnh, tịch tĩnh. Nghĩa là đã đoạn tận hữu ái:
“Như trăng sạch không uế. Sáng
trong và tịnh lặng. Hữu ái được đoạn tận. Ta gọi Bà la môn”.
Một vị Bà la môn sau khi đoạn
tận ái dục, sẽ giải phóng mọi lưới triền như nghi triền phược, chấp thủ, triền
phược, vô sanh triền phược, luân hồi, đau khổ, trong tâm trí chỉ còn lại sự
tịch tĩnh, tỉnh giác:
“Vượt đường hiểm nguy này. Nhiếp
phục nẻo luân hồi. Đến bờ kia, thiền định. Không dục ái, không nghi. Không chấp
trước, tịch tịnh. Ta gọi Bà la môn”.
Và một vị tăng sĩ, từ bỏ đời
sống thế tục, sống đời tu sĩ, chỉ được gọi là Xuất gia, Sa môn khi vị ấy có quá
trình tu tập, đoạn tận ái dục:
“Ai ở đời đoạn dục. Bỏ nhà sống
xuất gia. Dục hữu được đoạn tận. Ta gọi Bà la môn”.
Bậc sa môn trên cơ bản như vậy,
còn được gọi là bậc vô vi, theo ý nghĩa, không còn tạo tác hữu lậu nghiệp, sinh
tử nghiệp… là cũng do tinh tấn đoạn trừ ái dục, đạt đến chánh tri kiến tuệ
giác:
“Đời này Bà la môn. Hãy tinh tấn
đoạn dòng. Từ bỏ ái dục lạc. Biết được hành đoạn diệt. Người là bậc vô vi”.
4/ Nhìn chung, nội dung kinh văn
phản ánh khá sinh động tác hại của ái dục. Chính ái dục buộc trói con người
trong cái lo âu, sợ hãi, lo sợ mất cái mình yêu thích, lo sợ cái ngã, ngã sở,
ngã ái bị đánh mất và cũng chính vì vọng ái dục có vị đắng của đau khổ, sinh tử
như yêu thích và bị phân ly, xa lìa là đau khổ (ái biệt ly khổ), do đó, sống
ngoài vòng ái dục là sống ngoài vòng đau khổ, không còn ái dục là không còn đau
khổ, như trong kinh văn, Đức Phật đã dạy:
“Xa lìa ái dục, chẳng có gì để
lo, chẳng có gì để sợ!” vậy.
[1] Dhp.212.
[2] Dhp.214.
[3] Dhp.215.
[4] Dhp.216.
[5] Dhp.343.
[6] Dhp.371.
[7] Dhp.342.
[8]
Dhp.401.