Chương
13. Điều kiện chứng túc mạng minh (Thể nhập chí đạo)
I. DỊCH NGHĨA
Một vị sa môn hỏi Đức Phật:
- Nhờ nhân duyên gì biết được
túc mạng và thể nhập chí đạo?
Đức Phật dạy:
- Thanh tịnh hóa tâm, giữ vững ý
chí tu tập sẽ đạt ngộ Chí đạo, cũng như lau kính, bụi sạch, ánh sáng hiện. Đoạn
trừ tham dục và không cầu sẽ biết túc mạng.
II. LƯỢC GIẢI
Trong pháp thoại tuy ngắn nhưng
súc tích này có hai vấn đề cần được nêu ra để bàn thảo. Một là vấn đề túc mạng
minh và điều kiện cần và đủ để đạt được. Hai là chí đạo và điều kiện cần và đủ
để thể nhập. Vấn đề thứ nhất phổ thông cả Nam truyền lẫn Bắc truyền. Vấn đề
thứ hai là quan điểm khai phóng của Phật giáo Bắc truyền thuộc phần nội dung,
nhưng thuật ngữ là vay mượn (Chí đạo). Chúng ta sẽ lần lượt khảo sát từng vấn
đề. Trước hết là vấn đề túc mạng.
Trong pháp thoại Đức Phật dạy:
“Đoạn trừ tham dục, không tham cầu, sẽ biết được túc mạng”. Ở đây, vấn đề tham
dục được đưa ra mổ xẻ đến hai lần. Phải dứt trừ tham dục và thân tâm không còn
tham cầu. Đây là điều kiện cần và đủ để biết được túc mạng. Ở các chương 2, 3
và một số chương khác, chúng ta đã tìm hiểu về tham dục. Tham dục được Đức Phật
định nghĩa như động cơ tái sinh trong vòng luân chuyển miên viễn. Dứt trừ tham
dục là dứt trừ sự tái sinh:
“Người
tham dục làm bạn
Sẽ luân
chuyển dài dài
Khi hiện
hữu chỗ này
Khi hiện
hữu chỗ khác
Người ấy
không dừng được
Sự luân
chuyển tái sinh
Rõ biết
nguy hại này
Chính
tham dục sinh khổ
Tỳ kheo
dứt tham dục
Không
nắm, không thất niệm
Vị ấy
thật xuất gia.”[1]
Chính ngay bài kệ này lại xuất
hiện một định lý mới là: “Người không nắm giữ, không chấp thủ, không hệ lụy
tham dục sẽ an trú không thất niệm và thật là vị xuất gia với nghĩa xuất ly tam
giới hay xuất tam giới gia”, và ta còn biết, an trú không thất niệm là yếu tố
cơ bản cấu thành túc mạng minh. Chúng ta có thể rút ra đẳng thức chung:
Dứt tham dục = an tĩnh, an trú =
túc mạng minh
Trong một cuộc đàm đạo với tôn
giả Upavana, tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputta) cho biết rằng túc mạng minh là cội
nguồn của sự đoạn tận khổ uẩn: “Thưa hiền giả, người phàm phu do không tu tập
(không có hành) không có túc mạng minh. Do không có minh, nên không như thật
thấy biết nên không chấm dứt đau khổ.”[2]
Ngoài ra, những tạp chất làm mờ
nhạt trí tuệ, làm giảm sút ký ức quá khứ được đề cập ở các kinh cũng lại là
tham dục dẫn đầu. Các tạp chất này có tên gọi là “Ngũ triền cái tâm”, năm tạp
chất trói buộc tâm, phá hủy túc mạng minh: “Sắt, đồng, thiếc, chì, bạc là năm
uế nhiễm của vàng. Cũng vậy, tham dục, sân hận, trạo hối, hôn thùy, nghi ngờ,
là năm uế nhiễm của tâm, làm tâm không được chói sáng, không định tĩnh để đoạn
diệt các lậu hoặc.”[3]
Cũng ở kinh trên, Đức Phật còn
cho biết đoạn trừ năm tạp chất này, hành giả đã hiểu biết rõ đời sống của mình
và người, chứng đạt pháp thân, thể đạt chánh tri kiến giải thoát: “Tham dục,
sân hận, trạo hối, hôn thùy, nghi ngờ, là các pháp chướng ngại sự minh mẫn của
tâm, bao phủ hào quang của tâm, làm yếu ớt trí tuệ. Nếu đoạn tận chúng, ta sẽ
biết được quá khứ của mình, của người, lợi ích mình và người, chứng đắc pháp
thân, tri kiến thù thắng, xứng đáng là bậc thánh.”[4]
Ý nghĩa của các đoạn kinh trên
hoàn toàn phù hợp với kinh văn của chương này: “Dứt trừ tham dục, không tham
cầu sẽ biết được túc mạng”. Biết được túc mạng ở đây là chứng đắc túc mạng
minh, một trong tam minh của Phật giáo, là minh đầu tiên sau khi đã chứng đắc
bốn cấp bậc thiền.
Khi diễn tả quá trình tu chứng,
Đức Phật cũng tự sự rằng: Đầu tiên do ly tham dục chứng sơ thiền, nhưng còn tầm
tứ. Dứt sạch luôn tầm tứ, chứng nhị thiền, hoàn toàn an định, định trụ. Do xả
niệm lạc trú, chính tâm tỉnh giác, chứng đắc tam thiền. Cuối cùng, xả tất cả
mọi cảm thọ: lạc, ưu, khổ, chứng đắc tứ thiền. Từ quả vị tứ thiền, Đức Phật
tiếp tục an trú định tĩnh, không lay chuyển mà chứng túc mạng minh. Như vậy,
túc mạng minh là quá trình tu chứng đầu tiên của tam minh, nhưng sau tứ thiền.
Chứng túc mạng minh ta sẽ có một ký ức xuyên suốt quá khứ vô cực của mình và
muôn loài:
“Sau khi chứng tứ thiền, với tâm
định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, không dao động,
ta dẫn tâm, hướng tâm đến “túc mạng minh”. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ 1
đời, 2 đời, 3 đời, 4 đời, 5 đời, 10 đời, 20 đời, 30 đời, 40 đời, 50 đời, 100
đời, 1000 đời, 100.000 đời,… nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp… Ta nhớ rõ ràng:
tại chỗ kia, ta có tên thế này, dòng họ thế này, giai cấp thế này, thọ khổ lạc
thế này, tuổi thọ thế này. Sau khi chết, ta sinh ở chỗ khác. Tại chỗ ấy, thân
cũng nhớ rõ như trên… Như vậy, ta nhớ đến nhiều đời, nhiều kiếp sống quá khứ với
nét đại cương và các chi tiết.”[5]
Cần lưu ý rằng túc mạng minh
trong Phật giáo là kết quả của đoạn trừ tham dục. Chứng tứ thiền, tâm an trú
định tĩnh. Đó là giải thoát. Khác với các quan điểm túc mạng của các cô đồng bà
cốt, ông lên bà xuống.
Vấn đề chí đạo và điều kiện thể
nhập, kinh văn Đức Phật dạy: “Thanh tịnh hóa tâm, giữ vững ý chí tu tập”.
Nguyên văn câu nói này là “Tịnh tâm, thủ chí khả hội chí đạo”. Tịnh tâm, thủ
chí cũng là điều kiện cần và đủ của chí đạo. Hay ta cũng có thể dịch: Thanh
tịnh hóa nguồn tâm, giữ vững lập trường tu tập nhất định sẽ tỏ ngộ (hội: hiểu)
Chí đạo.
Chí Đạo là thuật ngữ của Đạo
giáo, với ý nghĩa chỗ cứu cánh của Đạo giáo là vô vi, cũng như các thuật ngữ:
ấnhi trí (hoặc trí tri) cứu cánh của hiểu biết; Chí nhân, cứu cánh của đức
nhân. Chí Đạo được mượn dùng ở đây không mang ý nghĩa của Đạo giáo mà ý muốn
nói là chỗ cao tột của đạo Phật, đạo giải thoát. Cao tột của Đạo, hiểu theo
quan điểm của Phật giáo Nam
truyền là quả A la hán, là Niết bàn vô dư của một vị A la hán mạng chung. Nếu
hiểu theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền cụ thể là Kinh Pháp Hoa, thì chỗ
cao tột của đạo không gì khác hơn là Nhất Phật thừa hay là Niết bàn diệu tâm,
là thực tướng vô tướng, là bản thể Như Lai tàng, là chân tâm diệu hữu v.v… của
các kinh hệ Bắc truyền khác quan niệm nhưng đồng nội dung. Kinh Pháp Hoa nói:
“Trong
mười phương cõi Phật
Chỉ có
một Phật thừa
Không
hai cũng không ba
Trừ Phật
vì phương tiện
Mới tạm
lập tam thừa
Để dẫn
dắt chúng sinh
Nhưng sự
thật chân lý
Chỉ có
“một Phật thừa”
Ngoài
ra, đều không thật.”[6]
“Chư Phật đời vị lai
Dầu nói
trăm muôn ức
Vô số
các pháp môn
Kỳ thật
vì Nhất thừa.”[7]
Như vậy, trên cơ bản cũng như
trong chiều kích cứu cánh, khái niệm Chí đạo kinh văn mượn dùng để vượt xa ý
nghĩa ban đầu của Đạo giáo: sâu sắc hơn, mới mẻ hơn, viên mãn hơn.
Trong các kinh, Đức Phật luôn
huấn thị chúng đệ tử tinh tấn hành trì thiền định để gạn lọc các tạp chất tâm
lý uế nhiễm, bất thiện, hoặc trau dồi giới đức để thanh tịnh tam nghiệp, trong
đó thanh lọc ý nghiệp là quan trọng. Vì ý nghĩa thanh tịnh thì thân nghiệp,
khẩu nghiệp được biểu hiện cũng trở nên thanh tịnh. Tam nghiệp thanh tịnh thì
con đường độc lộ hướng đến giải thoát sẽ khai mở (Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật tuệ viên mãn). Nhưng để đạt đến “chỗ cao tột của Đạo” như đã nói,
chúng ta phải kiên định trong lập trường (thủ chí) hướng đến giải thoát cứu
cánh, không ngừng lại ở Hoá thành” (nhị thừa, tam thừa) mà thẳng tiến Bảo sở
(Phật quả) như Kinh Pháp Hoa nói:
“Nhưng
dù nói Niết bàn
Nhưng
chưa phải là Chân diệt
Các pháp
tự xưa nay
Vốn là
tướng Tịch diệt.”[8]
Tịch diệt là Niết bàn cứu cánh,
Niết bàn ở Phật quả, chứ không phải A la hán. Tịch diệt đó, Niết bàn đó cũng
chính là “chỗ cao tột của Đạo” trong kinh này. Và chỗ cao tột của Đạo cũng là
giáo nghĩa “vô niệm, vô tác, phi tu, phi chứng” ở chương thứ 2 vậy.
Ngay pháp thoại này, tuy chỉ là
một câu vấn đáp ngắn gọn, đơn sơ, nhưng lại hàm tàng cả một giáo nghĩa của quá
trình tu chứng và toát lên được những áo lý rất Đại thừa. Căn cứ vào nội dung
của lời đối thoại, chúng ta cũng có thể hoạch định cho chính mình con đường tu
tập mẫn tiệp, chính xác và hướng đến mục đích phạm hạnh rốt ráo của Phật quả.
Đúng thật là lời gọn nhưng ý sâu, giản dị nhưng nan hành, không thể xem thường
được.
[1] Tăng Chi I, tr. 358.
[2] Tăng Chi I, tr. 554.
[3] Tăng Chi II, tr. 22.
[4] Tăng Chi II, tr. 69.
[5] Tăng Chi III, tr. 33.
[6] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, tr. 75.
[7] Kinh đã dẫn.
[8]
Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương
Tiện, tr. 77.