Chương
17. Ánh sáng người đạt đạo
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Người tuệ tri
được Đạo cũng như đem đuốc vào trong nhà tối, bóng tối liền tan, chỉ còn lại
ánh sáng. Người học đạo thấy được chân lý, vô minh sẽ bị tiêu diệt, nhưng ánh
sáng trí tuệ sẽ ngự trị mãi mãi.
II. LƯỢC GIẢI
Nội dung câu Phật ngôn trên tuy
ngắn ngủi, nhưng lại hàm chứa giáo nghĩa cao siêu, mà người học Phật không thể
nào bỏ qua được. Đầu tiên, Đức Phật xác định giá trị khai sáng của một hành giả
đã đạt ngộ được đạo, khi vị đó ở đây, ở đó sẽ được chói sáng bởi trí tuệ của vị
ấy, nghĩa là sẽ đem đến lợi lạc. Phần còn lại, Đức Phật đưa ra tính độc tôn của
trí tuệ của một vị gọi là đạt đạo, kiến đạo hay thể nhập đạo. Cách trình bày
vấn đề ở đây, rõ ràng là nêu quả trước và nhân sau. Quả là tác dụng khai sáng
của một vị tuệ tri được đạo. Nhân là phương tiện tu tập loại trừ vô minh, để
hiển thị tri kiến tuệ giác do kiến đạo đem lại. Nêu quả để hiển nhân, âu cũng
chính là sở trường hoằng hóa thuyết giảng của Đức Phật mà ngay thời pháp Tứ đế
đầu tiên Đức Phật đã vận dụng và thành công tốt đẹp.
A.- Đề cập đến người tuệ tri
được đạo, tưởng cũng nên tìm hiểu khái lược về ý nghĩa của từ này
Đạo hiểu theo Hán ngữ bao gồm
nhiều nghĩa. Đạo là con đường, với nghĩa chung chung. Đạo là bổn phận hay mối
quan hệ hữu cơ giữa người trên với kẻ dưới, và giữa con người với con người như
đạo vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng v.v… Nhưng đạo theo Phật giáo, còn có
nghĩa sâu hơn và đầy đủ hơn.
1.- Hữu lậu đạo: Chỉ chung cho thiện và ác. Thiện là con đường
dẫn đến hạnh phúc, an vui, cán cân của luân lý đạo đức. Ác là con đường dẫn đến
bất hạnh, đọa lạc, yếu tố của phi luân lý đạo đức. Ngay ý nghĩa này, đã bao hàm
ý nghĩa đạo là con đường và ý nghĩa đạo là bổn phận hay mối quan hệ. Vì trong
mối quan hệ như đã nói có thể có mối quan hệ thiện và cũng có thể có mối quan
hệ ác. Dù thiện hay ác, cũng chỉ là hữu lậu đạo mà thôi.
2.- Vô lậu đạo: Hiểu nghĩa chung là con đường, là phương pháp
giải thoát, vượt ngoài cái thiện ác, vượt ngoài các ý niệm luân lý nhị nguyên.
Nó có thể hiểu là chân lý tuyệt đối, chung cánh, như Hoa Nghiêm Đại Sớ 8 nói:
“Thông đến Phật quả là Đạo.”[1] Hay ta còn có thể hiểu Đạo là con đường đạt đến
tịch diệt giải thoát, như Luận Câu Xá 25 nói: “Thế nào là Đạo? Đạo là con đường
đạt đến Niết bàn. Nghĩa là đi theo con đường này sẽ đến được thành trì Niết
bàn”. (Đạo nghĩa vân hà? Vị Niết bàn lộ. Thừa thử năng vãng Niết bàn thành).
Như vậy, ta có thể xác quyết
rằng thuật ngữ Đạo trong kinh văn của chương này phải là con đường Niết bàn,
con đường Phật quả hay nói gọn là Đạo đế trong Tứ thánh đế. Do đó, Đạo cũng có
thể hiểu là chân lý chánh pháp. Phối hợp với kinh văn cho dễ hiểu, có thể viết
là: “Người tuệ tri được chân lý chánh pháp (thay vì đạo hay đạo đế) cũng như đem đuốc vào trong
nhà tối, bóng tối liền tan, chỉ còn lại ánh sáng”. Và chúng ta vẫn còn nhớ một
bài kệ Pháp Cú đã nói rằng: “Chánh pháp, đường thù thắng. Đường này không đường
khác. Đưa đến kiến thanh tịnh. Nếu ai theo đường này. Vô minh sẽ đoạn trừ.”[2]
So sánh hai lời dạy chúng ta
thấy hoàn toàn đồng nhất về nội dung. Chính yếu tố này, cho phép chúng ta khẳng
định đây là nét giáo lý truyền thống của Kinh
Bốn Mươi Hai Chương. Và bài kệ Pháp Cú dưới đây góp phần khai sáng
vấn đề: “Nếu ai theo chánh pháp. Đau khổ được đoạn tận. Ta dạy đường chánh
pháp. Trí còn, gai chướng diệt.”[3]
Hay một bài kệ khác còn nói lên
được người chứng đạt chân lý chánh pháp (đạo, đạo đế) đã làm xong phận sự của
mình trên đường tu tập, không những được mọi người cung kính mà còn là người
viên mãn giới đức, trí đức: “Trú pháp, chứng chân lý. Tự hoàn thành công việc.
Được quần chúng ái kính. Đủ giới đức, chánh kiến.”[4]
Chính ở giá trị độc hữu này,
người tuệ tri Đạo có một vị trí rất thù thắng, siêu vĩ giữa nhân loại và chư
thiên: “Giữa những loài hai chân, pháp nhãn, người thù thắng.”[5]
Cũng vì thế, người tu tập đạo
đế, thực hành chánh pháp, chân lý của Đức Phật sẽ đạt đáo bỉ ngạn giải thoát,
không còn vô minh cấu uế nào: “Ai hành đạo đế. Theo chánh pháp khéo dạy, sẽ đến
bờ bên kia. Hết vô minh cấu uế.”[6]
Đó là điều mà kinh văn, Đức Phật
gọi là: “Người tuệ tri được đạo, cũng như đem đuốc vào trong nhà tối, bóng tối
liền tan, chỉ còn lại ánh sáng” vậy.
B.- Để quán triệt ý nghĩa phần
kinh văn còn lại chúng ta cũng nên điểm qua từ ngữ trí tuệ
Theo các luận sư Bắc tông, hai
từ ngữ TRÍ và TUỆ hoàn toàn khác nhau. Trí như một sự giản trạch, phân tích,
phân giải. Tuệ là trạng thái sáng suốt không phân biệt. Cũng có vị cho rằng trí
là phán đoán, tuệ là giản trạch. Nhưng có vị lại cho rằng tuệ tri về tục đế là
trí, tuệ tri về chân đế là tuệ (tri tục đế viết trí, chiếu chân đế viết tuệ).
Căn cứ vào Đại Thừa Nghĩa Chương 9 thì: “Trí là quán chiếu, tuệ là tuệ tri. Hai
từ này khác nhau. Quán triệt thế đế là trí. Quán triệt đệ nhất nghĩa đế là
tuệ”. Dù sự giải thích của các luận sư có khác nhau nhưng vẫn toát lên yếu
nghĩa trí tuệ thù thắng hơn trí thức. Vì trí thức chỉ đơn thuần là tri (biết để
mà biết). Còn trí tuệ là sự hiểu biết thông qua quá trình thực nghiệm, khám
phá, thể nhập tu tập (tu thiền, trí tuệ sinh. Không thiền, trí tuệ diệt –
Dhp.282). Người có trí tuệ thì không còn tạo nghiệp ác, không bị ác chi phối,
nhưng người trí thức thì không được như vậy.
Trong khi đó, theo định nghĩa
truyền thống của Phật giáo Nam
tông, không có sự khác biệt nào giữa trí và tuệ. Trí tuệ được định nghĩa như là
một năng lực tinh thần giác ngộ, minh, sáng suốt và chói diệu: “Thế nào là trí
tuệ? Trí tuệ là trí hiểu, hiểu rõ, lựa chọn, cân nhắc, trạch pháp, tham khảo,
phân định, thông thái, rành mạch, khôn ngoan, sáng suốt, suy xét, tinh tường,
minh mẫn, hồi quang, quán minh, tỉnh giác, tuệ quán, chánh kiến, vô si.”[7]
Chúng ta cũng còn biết, trí tuệ
là nấc thang cuối cùng của sáu pháp ba la mật của Bồ Tát. Trí tuệ còn là pháp
ba la mật trong các ba la mật, thù thắng hơn ba độ trước[8]. Kinh Nikaya cũng
diễn tả tương tự, khi đặt vị trí của trí tuệ trên hết năm lực: “Tín lực, tấn
lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Này các Tỳ kheo, trong năm lực này, cái này
là cái tối thượng, cái này là cái tổng nhiếp, cái này là cái thâu tóm, tức là
trí tuệ.”[9]
Hay trí tuệ là ánh sáng thù diệu
trong các ánh sáng:
“Này các Tỳ kheo, có bốn loại
ánh sáng. Ánh sáng mặt trăng, ánh sáng mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh sáng trí
tuệ. Nhưng cái tối thượng nhất trong bốn loại, chính là ánh sáng trí tuệ.”[10]
Chính với trí tuệ, chứ không
phải trí thức, hành giả tu tập sẽ tuệ tri được chư hành là vô thường. Khổ, vô
ngã, nhờ đó, khổ đế được nhàm chán, viễn ly, con đường tịch diệt hé mở, ánh
sáng sẽ chói lòa:
“Tất cả
hành vô thường…
Tất cả
hành khổ đau…
Tất cả
hành vô ngã…
Với tuệ
tri thấy vậy
Đau khổ
được viễn ly
Minh tỏ,
đường thanh tịnh.”[11]
Vì thế ở bài kệ kế tiếp, Đức
Phật tái khẳng định giá trị của trí tuệ là vô song trên lộ trình giác ngộ, giải
thoát. Không có trí tuệ thì xa lìa chân lý. Không có trí tuệ thì không thấy
được chánh đạo:
“… Nếu
không có trí tuệ
Không
sao có chân lý
Không
sao thấy chánh đạo.”[12]
Mà trí tuệ là một cái gì đó
không dư tàn vô minh, không dung chứa vô minh, không tích tập vô minh. Có trí
tuệ thì vô minh sẽ tiêu diệt, minh hiện. Minh hiện, chân lý thể nhập không còn
là điều khổ, như kinh văn Đức Phật dạy:
“Người học đạo thấy được chân lý
(đế), vô minh sẽ bị tiêu diệt, nhưng ánh sáng trí tuệ sẽ ngự trị mãi mãi”.
[1] Thông chí Phật quả cố danh
Đạo.
[2] Dhp.274.
[3] Dhp.275.
[4] Dhp.217.
[5] Dhp.273.
[6] Dhp.86.
[7] Bộ Pháp Tụ số 44, tr. 31.
[8] Kinh Pháp Hoa, phẩm Phân Biệt Công Đức, tr. 431.
[9] Tăng Chi II, tr. 17.
[10] Tăng Chi I, tr. 523.
[11] Dhp.277-279.
[12]
Dhp.280.