Chương
38. Mạng sống con người chỉ trong một hơi thở
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật hỏi một vị Tỳ kheo:
- Mạng sống con người tồn tại
bao lâu?
- Trong vài ngày.
- Thầy chưa hiểu đạo.
Đức Phật hỏi vị khác:
- Mạng sống con người tồn tại
bao lâu?
- Khoảng một bữa ăn.
- Thầy cũng chưa hiểu đạo.
Đức Phật hỏi thêm một vị nữa:
- Mạng sống con người tồn tại
bao lâu?
- Trong một hơi thở.
- Hay lắm, thầy đã hiểu đạo.
II. LƯỢC GIẢI
Đối với Đức Phật, bất kỳ một
cuộc đối thoại đàm luận nào cũng đều mang ý nghĩa của một bài thuyết pháp, dù
gián tiếp hay trực tiếp. Và thông qua đó, chúng ta thấy được sự khế cơ tuyệt
hảo của Đức Phật. Mỗi một đối tượng, Đức Phật trình bày pháp cũng tùy theo năng
lực tiếp thu của đối tượng đó. Chưa có bao giờ Đức Phật thuyết pháp không ứng
cơ cả. Sự ứng cơ tiếp vật, có thể nói là yếu tố trọng yếu hàng đầu trong mục
đích cũng như hiệu năng của hoằng truyền chánh pháp đến với người khác, nhất là
người ngoại đạo. Ở đây tuy đối tượng chính yếu là một cuộc thẩm sát tri thức về
nguyên lý vô thường của hữu thể con người từ Đức Phật đến với ba vị Tỳ kheo.
Câu trả lời của hai vị đầu không được Đức Phật đồng ý, không có nghĩa là câu
hỏi của Đức Phật thiếu khế cơ, mà do nhân duyên nắm bắt chánh pháp của hai vị
này chưa đến. Vị thứ ba trả lời được Đức Phật tán thán là do nắm vững nguyên lý
vô thường. Đây mới chính là sự đối cơ tuyệt hảo. Sự đối cơ này còn là phương
tiện nhân duyên để hai vị Tỳ kheo kia chợt tỉnh và rõ đạo. Đó cũng là một sự
đối cơ gián tiếp.
Điều chúng ta cần lưu ý ở đây,
Đạo không mang nghĩa là chánh pháp hay con đường giác ngộ như ở các chương
khác. Đạo ở đây chỉ là “nguyên lý vô thường”. Không hiểu đạo, là không hiểu
được nguyên lý vô thường. Hiểu đạo là hiểu nguyên lý vô thường. Vô thường là
một chuỗi vận động từ hình thái cho đến tính chất trong từng sát na, sát na
một.
Sát na là một đơn vị cực ngắn
của thời gian, kinh Phật thường dùng thuật ngữ này để diễn tả sự vô thường biến
đổi vô cùng nhanh chóng mà mắt thường chúng ta không nhận ra được. Nếu nói theo
thuật ngữ khoa vật lý học hiện đại, thì sát na có thể hiểu là một Nanô.
Nanô là một phần tử của một đại
lượng vật lý như thời gian không gian, cũng còn gọi là vật lý na nô.[1] Sát na
vô thường là bản chất, là thuộc tính của mọi sự vật hiện tượng, trong đó có con
người với mạng sống của nó. Tập hợp chuỗi dài của những sát na vô thường này,
chúng ta có được sự vận động vô thường của từng giai đoạn, Phật giáo gọi đó là
nhất kỳ vô thường.
Mỗi một vật thể đều diễn biến
theo tiến trình bốn giai đoạn, hình thành, hiện hữu, biến hoại và tan rã. Mỗi
một giai đoạn như vậy cũng hàm chứa vô số vật lý na nô. Nghĩa là trong sự hình
thành cũng có vô số na nô, trong sự hiện hữu cũng có vô số na nô và trong sự
tan rã cũng có vô số na nô. Na nô hay sát na lại là thuộc tính cấp hai (theo
nghĩa cấp nhân) của nhất kỳ vô thường. Sự sinh, trụ, dị, diệt. Sự thành, trụ,
hoại, không. Sự sinh, lão, bệnh, tử, tất cả đều có mặt của các sát na vô thường
trong bản thân nó. Do đó, đứng trên phương diện này, câu trả lời của hai vị Tỳ
kheo đầu không phải là sai, mà là không hoàn toàn chính xác, chỉ phù hợp với
nhất kỳ vô thường. Mạng sống của con người tồn tại trong vài ngày hay trong
khoảng một bữa ăn cũng đúng với những trường hợp “mới thấy một người khỏe mạnh,
mà sau đó vài hôm hay vài mươi phút họ đã trở thành thiên cổ”. Đúng thật là “Vô
thường sát quỷ, bất dữ nhân kỳ”: Vô thường như là con quỷ giết người, không hẹn
ngày giờ trước với một ai (Quy Sơn Cảnh Sách). Nhưng ở đây, sở dĩ Đức Phật
khẳng định cả hai thầy đều “Chưa hiểu đạo” là vì muốn các thầy tuệ tri đến bản
chất uyên ủy của con người nói riêng, vạn vật nói chung. Sự biến đổi thân thể
trong từng đơn vị cực ngắn của thời gian, thông qua đó sự sống cũng mong manh
như vậy. Một hơi thở trút ra mà không hít vào, thì đã trở thành thiên cổ. Đời
hiện tại và đời sau chỉ cách nhau trong sát na nhỏ nhất. Hiểu được như thế mới
đích thực nắm vững nguyên lý vô thường của hữu thể con người.
Kinh Araka (A.iv.136) thuộc Tăng
Chi II, tr. 554-557, diễn tả sự vô thường của kiếp nhân sinh vô cùng nhanh
chóng, tạm bợ mỏng manh như cái gọi là sát an vô thường của nội dung chương
này:
“Này Bà la môn, ít oi, bé nhỏ,
nhanh chóng, tóm tắt, nhiều khổ đau là đời sống của loài người. Ví như giọt
sương trên đầu ngọn cỏ khi mặt trời mọc, mau chóng biến mất. Ví như bong bóng
nước trên nước khi trời mưa nặmg hạt, mau chóng tan bể. Ví như con sông trên
núi chảy ra, dòng nước chảy nhanh, lôi cuốn vật này vật khác, không có sát na
nào nó dừng nghỉ, nó phải chảy tới, cuồn cuồn chảy, thôi thúc chảy. Ví như
người lực sĩ tụ lại một nhúm nước miếng trên đầu lưỡi rồi nhổ đi không có phí
sức…
Sự vô thường trong từng tích tắc
của sự sống là như vậy. Do đó, nhân mạng chỉ thật sự tồn tại trên một điểm của
thời gian. Nếu nhân duyên sự sống đã hết, thì ngay điểm thời gian đó là kiếp
sau. Cảm nhận sâu sắc nguyên lý mang tính quy luật này, Tổ Quy Sơn đã tuyên bố
nó để khẳng định mục đích nỗ lực tu tập không để thời gian trôi qua luống uổng.
“Nguyên lý vô thường như sự già
nua, bệnh tật, cái chết… không dự báo cho một ai. Sự ra đi chỉ xảy ra một sát
na và đời sau đã hình thành ngay trong tích tắc ấy. Nguyên lý vô thường này rất
phổ biến, tưởng chừng như những hạt sương mai lóng lánh chẳng mấy chốc đã còn
đâu… Sự chuyển biến vô thường nhanh lẹ trong từng đơn vị nhỏ nhiệm của thời
gian. Một hơi thở ra mà không hít vào đã trở thành đời khác của sự sống. Do đó,
không một lý do gì được xem là hợp lý, khi chúng ta an nhàn để thời gian trôi
qua một cách vô ích.”[2] Kinh Bắc truyền cũng diễn tả mạng sống con người mong
manh, tạm bợ, vô ngã, chỉ hiện hữu trong từng sát na. Và sự hủy hoại sự sống
cũng trong sát na đó:
“Thân này không bền chắc, khác
nào như bọt nước, cây chuối, cọng lau. Thân này vô thường, niệm niệm không
dừng, như làn chớp, nước dốc, ngọn lửa, lằn vẽ trên nước…”[3]
Ở một đoạn khác, Đức Phật còn
diễn tả sự sát na sinh diệt của nhân mạng bằng các hình ảnh hết sức gợi tả dễ
hình dung, nắm bắt và cũng tương tự như đoạn kinh vừa nêu:
“Thân này như cây chuối, như ánh
nắng, như bọt nước, như huyễn, hóa, như thành càn thát bà, như làn chớp, như
làn vẽ trên nước…”[4]
Chính như thế chúng ta thấy,
nhận chân bản chất hiện tượng sinh diệt vô thường dù là trong nhất kỳ, hay trong
từng sát na cũng là những mục tiêu nhận thức và đúng đắn. Nhưng cần thiết hơn
hết vẫn là nhận chân trong nhất kỳ vô thường đã có hàm tàng một chuỗi sát na vô
thường. Và sát na vô thường là bản chất của vạn pháp. Mạng sống con người cũng
chịu sự chi phối khách quan này.
Câu vấn đáp sau cùng giữa Đức
Phật với vị Tỳ kheo thứ ba lóe lên những bài học sâu sắc, nhằm ngụ ý giáo dục
tư tưởng nhận thức quan một cách chánh kiến:
“Mạng sống con người tồn tại
trong bao lâu? Trong một hơi thở. Hay lắm, thầy đã hiểu đạo”.
Lời tán thán và xác quyết sự
thông hiểu trọn vẹn nguyên lý sát na vô thường của kiếp sống nhân sinh ở thầy
Tỳ kheo thứ ba, còn cho thấy tính khế cơ trong hoằng pháp của Đức Phật. Tán
thán một người, trên cơ sở đó, khích lệ mọi người. Hai thầy Tỳ kheo đầu và tất
cả chúng ta đều cùng nhận thức như vậy dù chỉ là gián tiếp. Nhìn chung, tuy
trong phần chính văn, chúng ta không hề thấy Đức Phật đề cập đến lợi ích của
nhận thức chánh kiến và nguyên lý vô thường này. Nhưng thông qua kinh tạng ta
cũng nên nêu ra một vài lợi ích cơ bản:
- Kinh Phật Thuyết Như Vậy khẳng
định, ai nhận thức chánh kiến nguyên lý sát na vô thường sẽ tự gắn mình trong
sự tu tập, thu thúc tự ngã: “Sinh y là vô thường, khổ, biến hoại, trong từng
sát na… (do đó) thấy sợ trong sinh y. Hiểu được sống và chết. Sau khi chứng đạt
được. Sự an tịnh tối thượng. Tự ngã được tu tập.”[5]
- Kinh Tương Ưng, thời cho biết,
hiểu được vô thường từng sát na trong các hành là ly khai khỏi sự hệ lụy vào
nó, nghĩa là giải thoát chấp ngã chấp pháp: “Vô thường trong từng sát na, không
kiên cố trong tùng sát na… là các hành. Cho đến như vậy, thật là vừa đủ để nhàm
chán, từ bỏ, giải thoát tất cả hành.”[6]
- Và Kinh Tăng Chi, chỉ nói gãy
gọn, tuệ tri bản chất vô thường là người có chánh tri kiến giải thoát.[7]
- Chính như vậy cũng thật là vừa
đủ để chúng ta chọn câu trả lời “mạng sống con người tồn tại trong một hơi thở”
mà áp dụng nó vào đời sống thực tại thường nhất để có ích cho phạm hạnh giải
thoát và tri kiến tuệ giác trên con đường nhận thức tu tập của chúng ta.
[1] Theo Nguyễn Văn Vĩnh, báo Khoa Học Phổ Thông, số Xuân Tân Mùi,
tr. 4).
[2] Quy Sơn Cảnh Sách.
[3] Đại Bát Niết Bàn I, tr. 24.
[4] Kinh đã dẫn, tr. 61.
[5] It 69, tr. 472.
[6] Tương Ưng II, tr. 220.
[7]
Tăng Chi I, tr. 36.