Chương
35. Bỏ cấu nhiễm tâm, đạt đạo giải thoát
I. DỊCH NGHĨA
Đức Phật dạy rằng: Như người
luyện sắt, bỏ mạt cặn bã để làm nên thành phẩm, thành phẩm nhờ vậy tinh hảo.
Người học đạo giải thoát cũng vậy, lọc bỏ những cấu nhiễm ở tâm, nhờ vậy tâm
hạnh được giải thoát.
II. LƯỢC GIẢI
1/ Có một vấn đề trọng yếu cần
đặt ra ở đây là xuất xứ của kinh này như thế nào? Nguyên tác ra sao? Căn cứ vào
các dữ kiện của nội dung kinh văn như: luyện sắt, thành phẩm và các cấu uế của
tâm, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh này lược dịch từ Kinh Các Uế Nhiễm
số 23 (A.iii,16) trong phẩm 5 Chi, Kinh Tăng Chi II, 22-24 và Kinh Ngăn Chận số
51 (A.iii,63) phẩm Triền Cái.[1] Nội dung nguyên tác như sau:
a/ “… Sắt, đồng, thiếc, chì và
bạc, có năm uế nhiễm này của vàng. Này các Tỳ kheo, do uế nhiễm ấy vàng bị uế
nhiễm, không được nhu nhuyến, không sáng chói, bị bể vụn và không chân chính
chịu sự tác thành. Khi nào vàng được giải thoát khỏi năm uế nhiễm này… thì các
đồ trang sức nào người ta muốn như nhẫn, bông tai, vòng cổ, dây chuyền, xuyến…
vàng ấy có thể sử dụng tùy theo ý muốn,” ở đây phần kinh văn, hai dịch giả Ma
Đằng và Trúc Pháp Lan đã lược thật gọn: “Người luyện sắt, bỏ mạt cặn bã để làm
nên thành phẩm (khí: đồ vật, dụng cụ), thành phẩm nhờ vậy tinh hảo”. Năm cấu uế
của vàng là sắt, đồng, thiếc, chì, bạc được thế bằng “mạt cặn bã”. Còn vàng chỉ
nói chung là “người luyện sắt”. Các mỹ phẩm trang sức có từ vàng nguyên chất
như nhẫn, bông tai, vòng cổ, dây chuyền, xuyến… được nói gộp là “thành phẩm”
(mỹ nghệ).
b/ “Cũng vậy, có năm cấu uế này
của tâm, này các Tỳ kheo, do các uế nhiễm đó, tâm bị uế nhiễm, không dễ sử
dụng, không chói sáng, bị bể vụn, không được chân chính định tĩnh, diệt các lậu
hoặc, đó là tham dục, sân hận, hôn thùy, trạo hối nghi ngờ”.
Ở đây kinh văn chỉ nói chung
chung là “các uế nhiễm của tâm” mà không nêu cụ thể, có lẽ nhằm giúp cho người
học hình dung các uế nhiễm rộng hơn nhiều hơn chứ không đơn thuần là năm pháp
ấy, mà là các lậu hoặc, phiền não ở tâm.
2/ Trước hết, chúng ta chấp nhận
nội dung của nguyên tác để lý giải nội dung chương này.
Nguyên tác khẳng định các cấu uế
của tâm: tham, sân, trạo hối, hôn thùy, nghi, là một khối bất thiện, trói buộc
tâm vào các nghiệp hữu lậu, bất thiện.
“Này các Tỳ kheo, nói đến một
đống bất thiện, nói một cách chân chính là nói đến năm triền cái.”[2] Kinh còn
cho biết người bị năm triền cái trói buộc sẽ tổn thất năm điều: “Ai bị năm
triền cái bao phủ tâm sẽ bị yếu ớt trí tuệ, không có sức mạnh, không thể biết
lợi ích mình và người, không chứng ngộ pháp thượng nhân, không thành tựu tri
kiến thù thắng.”[3]
Ở một đoạn kinh khác, Đức Phật
còn cho biết, người đoạn tận năm pháp triền cái, uế nhiễm tâm, sẽ thành tựu năm
thông: “Các loại thần thông biến hóa (thần túc thông), thiên nhĩ thanh tịnh,
siêu nhân nghe tiếng các loại hữu tình (thiên nhĩ thông), biết được tâm tính
của các chúng sinh (tha tâm thông), biết được kiếp sống quá khứ nhiều đời của
một và chúng sinh (túc mạng thông), đạt được thiên nhãn siêu nhân, biết hạnh
nghiệp của các chúng sinh (thiên nhãn thông).”[4]
3/ Theo Bộ Pháp Tụ, ngoài năm
triền cái trên, có thêm một triền cái nữa là Vô minh cái: “Thế nào là sáu triền
cái? Dục dục cái, sân độc cái, hôn thùy cái, trạo hối cái, hoài nghi cái, vô
minh cái.”[5]
- Nội dung của dục dục cái được
mô tả như sau: “Dục cái là sự mong muốn, tham luyến vui thích, ái nhiễm, luyến
thương, nôn nóng, hôn mê, quyến luyến.”[6] Dĩ nhiên đối tượng dục cái hay tham
cái ở đây là các bất thiện pháp, hữu lậu.
- Nội dung của sân độc cái thì
rộng hơn: “Sân độc cái là sinh niệm hiềm khích nghĩ rằng nó làm người lợi đến
ta, nó đã, đang, sẽ làm bất lợi đến ta, đến người thân ta, đến người thương ta;
nó đã, đang, sẽ làm lợi cho kẻ thù địch ta hoặc sinh hiềm khích trong sự kiện
vô lý, pháp nào như vậy là sự hiềm khích của tâm, thái độ phẫn nộ, phản kháng,
chống đối, giận dữ, giận hờn, tức giận, nóng nảy, ám hại, sự sân độc, sự hiềm
hận, cách hiềm hận, thái độ hiềm hận… Sự đối lập, phản đối, hung dữ, lỗ mãng,
sự bất bình của tâm.”[7] Nghĩa là tạo ra một quang phổ lửa sân ở tâm, bao trùm
lòng từ bi, nhân ái.
- Nội dung của trạo hối cái gồm
hai phần: trạo và hối.
“Trạo là trạo cử, diệu cử, tức
là sự tán loạn của tâm, sự chao động, lăng xăng, không vắng lặng của tâm, sự
phóng dật của tâm, sự hỗn loạn của tâm”.
“Hối là hối hận, là sự tiếc nuối
về việc đã làm như việc không đáng nghĩ là đáng. Việc đáng nghĩ là không đáng.
Việc không tội nghĩ là tội, việc tội nghĩ là không tội. Đó là sự hối hận, cách
hối hận, thái độ hối hận, sự ăn năn của tâm.”[8]
- Nội dung của hôn thùy cái cũng
gồm hai: hôn trầm, thùy miên.
“Hôn trầm là sự không bén nhạy
của tâm, không thích nghi, sự chần chừ, đình trệ, lười biếng, cách lười biếng
thái độ lười biếng, dã dượi, cách dã dượi, thái độ dã dượi của tâm”.
“Thùy miên là sự không bén nhạy
của thân, không thích nghi, sự che khuất, đậy khuất, bít ngăn bên trong, hôn
mê, bần thần, thiu thiu, buồn ngủ.”[9]
- Nội dung hoài nghi cái được mô
tả như sau: Ngờ vực hoài nghi bậc Đạo sư, ngờ vực hoài nghi giáo pháp, ngờ vực
hoài nghi chư Tăng, ngờ vực hoài nghi điều đã học, hay ngờ vực hoài nghi quá
khứ, vị lai, hoài nghi lý các pháp duyên tính liên quan tương sinh, bất cứ sự
kiện nào như vậy là sự do dự, cách do dự, thái độ do dự, dị nghị, không xác
định, lưỡng ước, phân vân, ngờ vực, không quyết đoán, vớ vẩn, lẩn quẩn, rối ý,
tình trạng lay động của tâm.”[10]
- Và nội dung vô minh cái được
mô tả: “Là sự không rõ biết đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là
đạo diệt khổ. Không rõ biết quá khứ, hiện tại, vị lai. Không rõ biết lý các
pháp tính liên quan tương sinh. Nói chung là sự không biết, không lãnh hội,
không liệu ngộ, không thực chứng, không thông suốt, không tiếp thu, không thấm
nhuần, không xét đoán, không phản kháng, không phản tỉnh, thiếu trí, khờ khạo,
không tỉnh giác, si mê, ám muội, và là căn bản bất thiện” (Sách đã dẫn, tr.
305).
4/ Theo Kinh Các Cấu Uế
(A.iv,195) số 15 trong Tăng Chi II, 51 thì cấu uế có tám loại, vô minh cấu uế
vẫn là then chốt: “Này các Tỳ kheo, có tám loại cấu uế: 1/ Không đọc tụng là
cấu uế của thánh điển. 2/ Không thức dậy là cấu uế của nhà. 3/ Biếng nhác là
cấu uế của dung sắc. 4/ Phóng dật là cấu uế của phòng hộ. 5/ Ác hạnh là cấu uế
của đàn bà. 6/ Xan tham là cấu uế của bố thí. 7/ Ác pháp, bất thiện là cấu uế
của đời này, đời sau. 8/ Nhưng này các Tỳ kheo, vô minh là cấu uế lớn nhất
trong các cấu uế”.
Nội dung của các cấu uế này cũng
được tìm thấy trong Kinh Pháp Cú, kệ 241-243: “Không tụng làm nhớp kinh. Không
đứng dậy, bẩn nhà. Biếng nhác làm nhơ sắc. Phóng dật uế phòng hộ. Tà hạnh nhơ
đàn bà. Xan tham nhờp kẻ thí. Ác pháp là vết nhơ đời này và đời sau. Trong các
cấu uế ấy, vô minh, nhơ tối thượng. Đoạn nhơ ấy Tỳ kheo, thành bậc không uế
nhiễm”. Và bốn bài kệ trong Kinh Pháp Cú vừa nêu, có thêm hai câu sau (đoạn nhơ
ấy Tỳ kheo, thành bậc không uế nhiễm), không có trong phần trùng tụng của Kinh
Tăng Chi bên dưới nguyên tác, nhưng rất có ý nghĩa giáo dục tu tập phạm hạnh
của các Tỳ kheo, nhất là còn phù hợp với nội dung giáo dục của Kinh Bốn Mươi Hai Chương này.
5/ Bộ Pháp Tụ, những pháp làm
cấu nhiễm tâm còn là thập triền cái và thập sử cái.
a/ Thập triền là ái dục, phẫn
nộ, mạn, kiến, hoài nghi, giới cấm, khinh thị, ái hữu, tật đố, lậu, vô
minh.[11] Trong đó ái dục triền, phẫn nộ triền, hoài nghi triền, ái hữu triền
và vô minh triền giống nội dung năm triền cái đã nêu (xem (3) của bài này).
- “Mạn triền là kiêu hãnh rằng
ta hơn, ta bằng, ta thua. Sự nào như vậy là cách so đo, thái độ so đo, tính
cách so đo, kiêu căng, kiêu hãnh, cống cao, tự cao, kỳ vọng của tâm.”[12]
- “Kiến triền là các kiến chấp:
Cho đời là thường còn. Cho đời không thường còn. Cho đời là hữu biên. Cho đời
là vô biên. Cho thân thể mạng sống là một. Cho thân thể mạng sống là khác. Cho
Như Lai tồn tại sau khi chết. Cho Như Lai không còn, cũng không không còn sau
khi chết. Kiến như vậy là thiên kiến, kiến chấp, kiến hý luận, kiến tranh chấp,
kiến triền, chấp trước, thiên chấp, khinh thị, tà đạo, tà tính… Ngoại trừ giới
cấm khinh thị triền, tất cả đều là kiến triền.”[13]
- “Giới cấm khinh thị triền là
cho rằng thanh tịnh nhờ ép xác, thanh tịnh nhờ cực hình, thanh tịnh nhờ khổ
hạnh cực đoan. Kiến như vậy là thiên kiến, tà kiến, là dây trói buộc.”[14]
- “Tật triền là sự ganh tỵ, cách
ganh tỵ, thái độ ganh tỵ, ganh ghét, cách ganh ghét, thái độ ganh ghét đối với
lợi lộc, cung kính, tôn trọng, tôn vinh, đảnh lễ, cúng dường cho người
khác.”[15]
- “Lậu triền gồm năm bỏn sẻn:
Bỏn sẻn chỗ ở. Bỏn sẻn gia tộc. Bỏn sẻn lợi lộc. Bỏn sẻn danh thơm. Bỏn sẻn
pháp. Bao gồm sự bỏn sẻn, cách bỏn sẻn, thái độ bỏn sẻn. Sự keo rít, sự keo
kiệt, sự hà tiện, sự hẹp hòi, không tế độ của tâm.”[16]
b/ “Thập não sử triền là tham,
sân, si, mạn, kiến, hoài nghi, hôn trầm, trạo cử, vô tàm, vô quý.”[17] Trong
thập não sử triền này, 7 chi pháp sân, si (vô minh), mạn, kiến, hoài nghi, hôn
trầm, trạo cử đã nêu ở trên. Chỉ còn ba chi pháp tham, vô tàm, vô quý.
- “Tham được định nghĩa là tham
đắm, tham luyến, vương vấn, thỏa thích, vui thích, hoan hỷ, ham muốn, say mê,
quyến luyến, ràng buộc, trói buộc, dính líu, nhiễm đắm, khát vọng, ảo vọng, sản
sinh, ái dật, ái võng, ái hà, khát ái, ái thằng, ái tỏa lan, trữ tình, nguyện
cầu, ái thân, tình thương, lưu luyến, kết buộc, ước muốn, sự mong mỏi, muốn sáu
trần, muốn năm dục, muốn lợi lộc, muốn con cái, muốn tài sản, muốn sống, mộng
ước, tham cầu, mê mẩn, mong điều tốt, luyến phi pháp, tham vọng, hoài vọng,
hoan lạc, ái dục, ái hữu, ái phi hữu, là phiền não, ngục tù, vật dục, cội khổ,
bẫy ma, là căn bản bất thiện.”[18]
- “Vô tàm được định nghĩa là
không hổ thẹn những điều đáng hổ thẹn. Không hổ thẹn với việc phạm các ác, bất
thiện nghiệp.”[19]
- Vô quý được định nghĩa là
không có sợ hãi với những điều đáng sợ hãi. Không sợ hãi với việc phạm các ác, bất
thiện pháp.”[20]
6/ Theo Duy Thức học Phật giáo
Bắc tông, cụ thể là Duy Thức Tam Thập Tụng của Thế Thân và Bách Pháp Minh Môn
Luận thì các pháp cấu nhiễm tâm gồm có:
- Sáu căn bản phiền não: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Riêng ác kiến chia ra năm lãnh vực: thân kiến
triền (chấp con người là tạo vật của Thượng đế, chấp ngã), biên kiến triền
(đoạn kiến, thường kiến, nhị nguyên luận), tà kiến triền (bác vô nhân quả báo
ứng, bác nghiệp báo, phủ nhận công đức cha mẹ…), kiến thủ (ngoan cố, bảo thủ,
cố chấp, những quan điểm lệch lạc), giới cấm thủ (tức là giới cấm khinh thị).
- 20 tùy phiền não chia làm ba
cấp bậc. Tiểu tùy hoặc: phẫn,
hận, phú não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu. Đại tùy hoặc: phóng dật, thất niệm, bất chánh tri, trạo
cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, tán loạn. Trung
tùy hoặc: vô tàm, vô quý.[21]
7/ Nhìn chung, căn cứ vào kinh
tạng hay luận tạng thì vấn đề trọng yếu nhất vẫn là tác hại của các pháp triền
cái cấu nhiễm tâm tính con người. Nó là môi giới, là chất xúc tác gây ra những
phản ứng xáo trộn tâm lý, làm cho tâm lý mất đi chất an tĩnh, tịch tĩnh để theo
sóng phiền não. Khi nào các bợn nhơ dục lậu ở tâm đã được gột sạch, thì khi ấy
tâm ta trở về trạng thái uyên nguyên, thanh tịnh, thuần thiện. Khi tâm thanh
tịnh, và với điều kiện này các hành vi tạo tác của thân, của lời cũng do đó mà
trở nên thanh tịnh. Bởi vì ta đã biết, tâm ý là năng lực thôi thúc hành động,
là động cơ biểu thị, cấu thành hành động (tâm lực, ý chí lực, thôi miên lực…)
theo nghĩa tác ý là nghiệp. Do đó, nếu tâm ta tác ý điều thiện, đạt đáo trạng
thái an tĩnh tuyệt đối thì nhất định các hành vi biểu hiện phải là thiện
nghiệp, thiện hạnh, như Kinh Pháp Cú xác nhận:
“Ý dẫn
đầu các pháp
Ý làm
chủ, ý tạo
Nếu với
ý thanh tịnh
Nói lên
hay hành động
An lạc
bước theo sau
Như
bóng, không rời hình.”[22]
Và đây cũng chính là thâm ý giáo
dục của kinh văn chương này:
“Lọc bỏ những cấu uế ở tâm, nhờ
vậy tâm, hành được thanh tịnh”.
Mà tâm, hành (tức thân, khẩu, ý:
tâm, hành: hành động thân khẩu) thanh tịnh tức là giải thoát (tam nghiệp hằng
thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương).
[1] Tăng Chi II, tr. 68-70.
[2] Tăng Chi II, tr. 70.
[3] Tăng Chi II, tr. 69.
[4] Tăng Chi II, tr. 23-24.
[5] Bộ Pháp Tụ, số 748, tr. 302.
[6] Sách đã dẫn.
[7] Sách dã dẫn, tr. 302-303.
[8] Sách đã dẫn, tr. 304.
[9] Sách đã dẫn, tr. 303.
[10] Sách đã dẫn, tr. 304.
[11] Bộ Pháp Tụ số 719-729, tr. 291-293.
[12] Sách đã dẫn, số 722, tr.
292.
[13] Sách đã dẫn, số 723, tr.
292.
[14] Sách đã dẫn, số 725, tr.
293.
[15] Sách đã dẫn, số 727, tr.
293.
[16] Sách đã dẫn, số 728, tr.
293.
[17] Sách đã dẫn, số 791, tr.
319.
[18] Sách đã dẫn, số 792, tr.
319-320.
[19] Sách đã dẫn, số 800, tr.
322.
[20] Sách đã dẫn, số 801, tr.
322.
[21] Bách Pháp Minh Môn Luận Biểu Giải, bản Hán, tr. 45.
[22]
Dhp.2.