15. Nói lời ác phải chịu quả báo
Lúc đức Phật thuyết pháp ở thành Tỳ Gia Lê, có một người tên là Ca La
Việt, được nhìn thấy tôn nhan của Thế Tôn, sinh lòng hân hoan vô hạn,
bèn thỉnh đức Phật đến nhà để có dịp thành tâm cúng dường.
Khi đức Phật đến và từ bi chú nguyện cho ông, Ca La Việt trân trọng đứng
lên cung thỉnh Thế Tôn thuyết giảng ý nghĩa chân thật của Phật pháp. Đức
Phật mỉm cười, từ miệng Ngài phóng ra một luồng ánh sáng năm màu rực rỡ,
luồng ánh sáng này lập tức nhiễu quanh Ngài ba vòng rồi mới ẩn vào đỉnh
đầu của Ngài mà biến mất.
Ngài A Nan thấy thế, vội sửa y phục đến trước đức Phật mà bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn! Phật không khi nào cười mà không có nguyên do. Hôm nay
Thế Tôn cười, chắc là có điều gì muốn khai thị cho chúng con. Chúng con
vô cùng ngưỡng mong được nghe Thế Tôn từ bi thuyết pháp.
Đức Phật lại cười đáp:
– Được rồi, A Nan! Ta biết ông lúc nào cũng vì chúng sinh mà mong muốn
vạch ra một con đường đưa đến giải thoát, cho nên bây giờ ta sẽ vì ông
mà thuyết giảng.
Cách đây rất lâu, tại một vương quốc nọ, có 500 người lái buôn chuyên đi
đào quật các mỏ vàng ngọc châu báu. Có một hôm, họ vào biển sâu tìm kho
tàng. Tìm được kho tàng rồi, trên đường về, họ sợ gặp sóng dữ nguy hiểm
nên mới bỏ thuyền mà đi trên đất liền. Ngày hôm ấy họ băng qua một ngọn
núi cao, khi mặt trời đã ngả về tây, mọi người nằm ngay xuống đất mà
ngủ, hẹn nhau rằng hôm sau khi trời vừa hừng sáng thì phải lập tức lên
đường.
Quả nhiên, sáng sớm ngày hôm sau, 499 người thức dậy đúng giờ chuẩn bị
hành trang xong xuôi là khởi hành ngay, chỉ có một người không ai nhìn
thấy mà đánh thức nên vẫn còn nằm ngủ say ở đó.
Khi người này mở mắt tỉnh giấc thì đã lạc mất đồng bạn, cuống cuồng chạy
ra đường núi những tưởng bắt kịp đoàn người kia, nhưng đã muộn mất rồi!
Người này chạy tới chạy lui, nhưng chạy đường nào đi nữa cũng không ra
khỏi được những hẻm núi quanh co hiểm trở.
Đúng lúc ấy, gió bắc bỗng nổi dậy rít lên giận dữ, trong chớp nhoáng một
trận cuồng phong thổi tới làm cho cát đá bay loạn xạ, từng tảng băng
tuyết ào ạt rơi xuống, con đường núi trước mặt phút chốc đã bị băng
tuyết phủ kín, không trông thấy đâu nữa.
Con đường về nay đã không còn, người lái buôn này tuyệt vọng ôm mặt khóc
ròng, nước mắt lả chả.
Trong những hẻm núi quanh co đó có một cây gỗ thơm Chiên Đàn, hấp thụ
tinh hoa của trời đất từ lâu đời nên có được tánh linh và biến thành một
vị thần cây. Thần cây biết được nỗi thống khổ của người lái buôn lạc
đường nên phát tâm cứu giúp, đến trước người này mà nói rằng:
– Ông có thể tạm thời đến chỗ của ta mà ở, chuyện ăn uống, quần áo đã có
ta lo liệu, chờ tới mùa xuân năm sau, băng tuyết tan rồi sẽ tìm ra đường
về.
Người lái buôn đã đến bước đường cùng, nghe thế mừng rỡ vô cùng, từ đó
bèn trú ngụ dưới gốc cây Chiên Đàn này.
Thời gian qua như tên bay, chẳng mấy chốc mùa xuân đã đến, băng tuyết đã
tan, đường về đã hiện ra trước mắt, người lái buôn lạc đường mới nói với
thần cây:
– Khi tôi cùng đường mạt lộ, hân hạnh được ngài cứu vớt mới sống sót
được tới ngày hôm nay, chỉ hận là trong người không có vật gì để báo đáp
ơn ngài. Bây giờ tôi còn chút cha già phải về phụng dưỡng, xin ngài vui
lòng đưa đường chỉ lối cho tôi về.
– Được –thần cây cười nói và đưa cho người này một cái bánh bằng vàng –,
ông cứ đi thẳng trước mặt thì sẽ đến một ngôi thành nhỏ, cứ ven theo
ngôi thành ấy thì sẽ tìm được đường về nhà.
Nghe xong, người lái buôn lạc đường mới cáo biệt thần cây:
– Gốc cây này mùi hương ngào ngạt thanh khiết không gì sánh bằng, trên
thế gian chắc chắn không có một gốc cây thứ hai như thế. Hôm nay tôi từ
biệt ngài mà về chốn xa xôi, có lẽ suốt đời tôi sẽ không được gặp lại
ngài nữa, chỉ ao ước ngài vui lòng cho tôi biết tên.
Thần cây trả lời:
– Ông hãy đi về đi, tìm biết tên ta mà làm gì.
Người lái buôn nói:
– Tôi rất xấu hổ, lúc cùng đường gặp ngài nên được sống sót, tính lại
hơn một trăm ngày đã trôi qua mà chưa báo đáp được mảy may nào công ơn
to lớn của ngài, thật ra tôi không làm gì khác được là xin được biết quý
danh để khi về tới nhà, tôi có thể kể cho người nhà biết đến công đức
của ngài.
Thần cây thấy người lái buôn có vẻ thành thật, không nỡ từ chối hảo ý
của người này nên thẳng thắn nói tên mình là Chiên Đàn, nhưng dặn đi dặn
lại mấy lượt:
– Rễ nhánh của ta có thể trị được tất cả các loại bệnh của thế gian, mùi
hương của ta bay ngát bốn phương trời, ở xa cũng có thể ngửi thấy, có
thể nói là trên đời có một không hai. Nhưng nếu mọi người biết được sự
hiện diện của ta, lòng tham không đáy của họ sẽ khiến họ đến đốn ngã ta
mất. Vì thế, ta hy vọng ông sẽ không nói với ai chỗ ta ở.
Người lái buôn cám ơn thần cây rồi, đi theo lộ trình thần cây chỉ dẫn,
quả nhiên về được tới nhà của mình. Sau đó ông sống những chuỗi ngày an
vui hạnh phúc bên cạnh cha mẹ và vô số bạn bè thân thích.
Sau đó không lâu, nhà vua bỗng mắc bệnh đau đầu, thuốc thang mọi thứ đều
vô hiệu, sau gặp một vị thầy thuốc danh tiếng nói cho biết rằng chỉ có
một phương thuốc chữa được bệnh của vua, đó là làm sao tìm cho ra một
cây Chiên Đàn, lấy lá rán lên làm thuốc mà uống.
Nhà vua nghe thế, lập tức xuống chiếu nói rằng, hễ ai tìm được cây gỗ
thơm Chiên Đàn thì sẽ được phong thưởng hậu hĩ, chưa kể còn được vua gả
công chúa cho nữa.
Lệnh vua truyền xuống chẳng mấy chốc đã tới tai người lái buôn ngày nào
đi lạc đường. Người này tuy mặt người nhưng lòng thú, tâm tham dục quyến
rũ không sao cưỡng được, nên quên mất ơn cứu mạng và những lời căn dặn
năm lần bảy lượt của thần cây, lén lút chạy đi nói với nhà vua là mình
biết chỗ có cây Chiên Đàn.
Nhà vua liền phái một đoàn dũng sĩ đi theo gã lái buôn để đốn cây Chiên
Đàn mang về.
Thế là một đoàn người rầm rộ, ngày đi đêm nghỉ không một ngày nào ngừng,
quả nhiên đến được chỗ có cây chiên đàn. Mọi người ngước lên chỉ thấy
cành lá sum sê, thân cây sừng sững chót vót. Bọn vệ sĩ thấy cây như thế,
không ai nỡ ra tay đốn. Nhưng nếu về tay không thì cái tội khi quân,
cưỡng lệnh vua làm sao trốn thoát? Đang phân vân lưỡng lự thì bỗng có
tiếng nói vang rền từ trên không vọng xuống:
– Ta là thần của gốc cây này, quý vị nếu muốn đốn cây thì cứ việc ra
tay. Chỉ xin quý vị cố gắng giữ gìn rễ cây để cây đừng chết hẳn. Đốn cây
xong, xin quý vị kiếm xác của một người mới chết, lấy máu người này bôi
lên rễ cây, rồi lấy ruột gan đắp lên trên, cây sẽ có thể sống lại như
cũ.
Nghe đến đây, ai nấy mỗi người một tay đưa búa lên chém, thân cây ngã
xuống đánh ầm một tiếng. Đúng lúc đó, người lái buôn đứng bên cạnh đang
mải mê ngước đầu lên nhìn bỗng rú lên rồi ngã xuống đất. Mọi người hớt
hải chạy đến thì thấy trên thân của người này máu chảy dầm dề. Thì ra
người này không hiểu sao bỗng vấp phải một cái rễ cây mà ngã xuống, bị
trúng ngay chỗ hiểm. Thật đáng thương, tiền lãnh thưởng thì chưa thấy
đồng nào mà tính mệnh thì than ôi đã đi đời!
Lúc mọi người còn đang bàn tán sôi nổi bên cạnh thi thể của người lái
buôn xấu số, thì có một người lên tiếng:
– Lúc nãy tôi nghe có tiếng người nói từ trên không vọng xuống, bảo kiếm
xác người mới chết lấy máu mà bôi lên, rồi lấy ruột gan mà đắp lên rễ
cây. Lúc đó tôi hoang mang tự hỏi, ở một nơi hoang vắng như thế này thì
lấy đâu ra xác người? Nào ngờ người lái buôn này lại chết bất đắc kỳ tử,
hay có thể ông ta vừa tới số cũng không chừng, thôi thì chúng ta hãy tạm
lấy máu và ruột gan ông ta đắp lên rễ cây vậy.
Mọi người ai nấy đều đồng lòng hưởng ứng, khi họ hoàn tất việc này,
trong nháy mắt rễ cây bỗng đâm ra tua tủa và cành lá vươn lên rậm rạp,
gốc cây sum sê tươi tốt như thể chưa từng bị đốn xuống bao giờ.
Nhà vua nhờ uống thuốc chế từ cây Chiên Đàn nên bệnh đau đầu phút chốc
đã lành, bèn truyền lệnh cho tất cả thần dân, ai có bệnh thì hãy đến lấy
thuốc Chiên Đàn còn lại đem về uống, chẳng bao lâu, bệnh tật nào cũng
chữa lành hết. Từ đó đất nước thanh bình, quốc thái dân an, hưởng hạnh
phúc lâu dài.
Ngài A Nan nghe đức Phật kể đến đây, bèn rời chỗ ngồi, tiến lên lễ Phật
bạch rằng:
– Người lái buôn lạc đường sao lại vong ơn bội nghĩa, quên lời dặn dò
của thần cây? Tại sao vì muốn lãnh thưởng mà lại làm chuyện trái với lẽ
phải như thế kia?
Đức Phật là một vị đại giác, Ngài biết một cách rõ ràng mọi dây mơ rễ má
của từng quan hệ nhân quả một, nên trả lời ngài A Nan:
– Ngày xưa khi Phật Duy Vệ còn tại thế, có ba cha con nhà nọ.
Người cha chăm chỉ thực hành ngũ giới, thập thiện, nghiêm trì bát quan
trai giới, tinh tiến, không giải đãi. Người con trưởng cũng hay ở giữa
sân hướng lên không trung mà đốt hương lễ bái, cúng dường chư Phật trong
mười phương. Còn người con út lại ngu si không biết tôn kính Tam Bảo,
thường lấy áo quần không thanh khiết mà đậy lên những nén hương này.
Người con trưởng nói:
– Hành động mày làm rất tội lỗi, làm sao mày có thể ngang ngược làm
chuyện xúc phạm như thế được!
Người con út không những không hối lỗi mà còn dùng lời thô ác mắng lại
anh:
– Hứ! Sao anh dám xía vô chuyện của tôi? Tôi thề chặt đứt chân anh mới
hả lòng!
Người con trưởng không nén được cơn giận mới trả lời:
– Đồ mất dạy, tao giết mày chết bây giờ!
Người cha đứng bên cạnh cũng nổi cáu lên mà ôm đầu than:
– Chúng bây hai đứa cãi nhau ồn ào quá, làm tao bực bội nhức cả cái đầu
đây này!
Người con trưởng nói:
– Con sẵn sàng mổ thân con ra làm thuốc chữa cho cha lành bệnh.
Đức Phật nói đến đây, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp:
– Ai cũng thế, không nên thốt lời vọng ngữ! Kiếp này tạo khẩu nghiệp, về
sau thế nào cũng bị báo ứng. Như đứa con út vừa nói ban nãy, vì niệm ác
khởi lên muốn chặt đứt chân anh, quả nhiên về sau đem người đến đốn cây,
tức là người anh đầu thai lên làm thần cây. Người con trưởng đòi giết
em, quả nhiên sau đó thực hiện lời nói của mình. Còn ông vua bị bệnh đau
đầu chính là cha của anh em nhà ấy, nhờ phụng trì trai giới một cách
tinh tấn nên sinh ra được mọi người tôn quý, nhưng chỉ vì khi hai đứa
con của ông cãi nhau, ông đã từng nói “làm cho tao nhức đầu quá” nên về
sau quả nhiên bị bệnh đau đầu.
Những người này, người nào cũng đã từng thốt lời vọng ngữ bừa bãi, nên
mỗi người đều chịu quả báo lời nói của mình.
Cho nên nói rằng, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, không mảy may sai
chạy là như vậy.
Đức Phật thuyết về vấn đề giữ giới thân khẩu ý xong, ông Ca La Việt đứng
bên cạnh Ngài lập tức chứng quả Tu Đà Hoàn. Trong nhà ông có bao nhiêu
tài sản, ông đem lên cúng dường hết để dùng vào việc truyền bá rộng rãi
Chánh pháp. Xong, ông còn đưa vợ con đi quy y Phật, để họ được bước trên
con đường chính giác.