23. Niệm Phật được cứu
Thời xưa có một người đàn bà hiền đức và tài giỏi, thường được gọi là bà
Hiền Huệ. Nhờ bà thường lắng nghe Phật pháp nên hiểu rõ rằng đời sống
con người là tạm bợ và đau khổ. Nếu không tu học Phật đạo, nếu không tự
cảnh giác để khỏi phạm tội, thì không kể nam hay nữ, tất cả sẽ vĩnh viễn
trôi nổi trầm luân trong sáu nẻo không có ngày chấm dứt.
Tuy công việc nhà rất bề bộn, nhưng đi đứng nằm ngồi bà cũng không quên
tinh cần niệm Phật. Ngay cả những người hàng xóm hai bên nhà cũng được
bà khuyến khích, nên cũng chuyên tâm cùng bà tu học, tất cả đều chuyên
tâm niệm danh hiệu Phật nên sống một đời sống an nhiên vui vẻ.
Chỉ có mỗi một điều đáng tiếc là chính người chồng của bà Hiền Huệ thì
không thể khuyến hóa được, có lẽ vì cơ duyên chưa chín mùi chăng? Nhưng
lỡ như đó là một người dở tệ đến nỗi không có cách nào tiếp nhận được
Phật pháp thì thật là đáng tiếc! Bà Hiền Huệ cứ nghĩ đến đây là lo lắng
vô cùng, bà suy đi tính lại mãi mà không tìm ra cách nào cải hóa ông
chồng.
Một hôm, bà nhìn thấy những đứa bé con hàng xóm đang đùa nghịch với một
cái chuông đồng trước mặt nhà bà, bỗng nhiên bà nhanh trí loé ra trong
đầu một phương pháp rất hay.
Trời gần tối, chồng về tới nhà, bà nói với chồng rằng:
– Thiếp nghe nói gần đây thường xảy ra nhiều vụ trộm cướp, phu quân đi
làm việc, thiếp ở nhà một mình, trước cửa không có ai canh gác, thật là
nguy hiểm cho nên thiếp bắt buộc phải đóng chặt cửa lại. Thiếp muốn mua
một cái chuông đồng treo trước cửa, phu quân về tới nhà thì lắc chuông
vài tiếng, mỗi lần lắc là niệm một câu “Nam mô A-di-đà Phật” làm ám
hiệu, thiếp biết phu quân đã về sẽ ra mở cửa. Làm như thế vừa có thể
phòng ngừa bọn trộm cướp, vừa để cho thiếp an tâm làm việc trong bếp.
Người chồng mỉm cười gập đầu:
– Được! Hiền thê nghĩ cách đó rất hay.
Từ đó về sau, người chồng về nhà bắt buộc phải lắc chuông và niệm vài
câu Phật hiệu. Việc niệm Phật do đó dần dần trở thành một thói quen lúc
nào ông cũng không hay biết.
Người chồng không nghe Chính pháp, giống như bao nhiêu người khác không
phân biệt rõ thiện ác, mặc cho hoàn cảnh đưa đẩy mà tạo tác các nghiệp.
Vì thế nên khi vô thường đến, ông lâm bệnh lìa đời, không đem theo được
gì trừ ra nghiệp tội là không rời thân. Một con người ở trong vũng lầy ô
trọc của tội ác thì cho dù tài giỏi đến đâu, lúc ấy cũng không giở trò
gì được.
Người chồng bị đọa xuống địa ngục lớn, trong đó có vạc dầu sôi, núi dao
với những hình phạt độc ác ghê rợn nhất. Bọn ngục tốt hung hăng đưa đinh
ba trong tay lên nhắm hướng người tội nhân mới đến mà xông tới, muốn
dùng đinh ba xóc ông ném vào vạc dầu sôi. Cái đinh ba này bằng sắt, bên
trên có treo rất nhiều khoen sắt chạm vào nhau kêu leng keng, làm cho
tội nhân càng thêm run sợ.
Nhưng âm thanh của những chiếc khoen sắt hay những dụng cụ tra tấn chạm
vào nhau lại giống như tiếng chuông đồng treo trên cửa nhà vợ chồng bà
Hiền Huệ, nên người tội nhân mới đến này, tức là chồng bà Hiền Huệ, theo
thói quen liền buộc miệng niệm “Nam mô A-di-đà Phật”.
Lạ thay, địa ngục đen ngòm âm u bỗng nhiên sáng rực, ánh sáng không biết
từ đâu chiếu đến. Bọn ngục tốt ngừng mọi khí cụ tra tấn trong tay, ngọn
lửa phừng phực cũng bị dập tắt, nguyên cả địa ngục biến thành một nơi
thanh tịnh mát mẻ.
Rất nhiều hồn ma đang chịu hình phạt cũng được nghỉ ngơi. Lúc ấy có sứ
giả của địa ngục đến ra lệnh với bọn ngục tốt rằng:
– Hãy đưa người đó lên cõi người, hắn có đầy đủ công đức của việc trì
niệm danh hiệu Phật.
Địa ngục trở lại cảnh tượng thê thảm trước, nhưng chồng bà Hiền Huệ thì
đã sinh lên cõi người rồi.
Công đức của một câu niệm Phật to lớn như thế, hy vọng những người không
niệm Phật sẽ mau mau bắt đầu!