21. Đói và no
Một hôm, đức Phật dẫn 500 vị tỳ-kheo trên đường từ nước Tu Lại Bà đi về
thôn Tỳ Lan Nhã, tìm chỗ trú ngụ trong một khu rừng ở ven đường.
Thôn trưởng của thôn Tỳ Lan Nhã ngày xưa vẫn tin tưởng phụng thờ đạo
Bà-la-môn, về sau nghe và biết được đức Phật có đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ
đẹp, thân phóng hào quang và diễn thuyết diệu pháp về vũ trụ nhân sinh,
mới chuyển qua tin tưởng Phật giáo.
Hôm ấy, nghe đức Phật sắp đến thôn của mình, ông bèn nắm lấy cơ hội ngàn
năm khó gặp này, đến khu rừng nơi đức Phật đang an trụ, đảnh lễ mà thưa
rằng:
– Bạch Thế Tôn, con là thôn trưởng của thôn Tỳ Lan Nhã ở cách đây không
xa, nghe đức Phật giáng lâm con vô cùng vinh hạnh. Vì thế con vội vàng
đích thân đến đây cung thỉnh Thế Tôn và chư tỳ-kheo đến thôn của con cư
trú trong ba tháng an cư mùa mưa. Con nguyện đảm trách tất cả mọi sự
cúng dường, xin đức Phật từ bi nhận lời!
Đức Phật dạy:
– Ta biết ông có lòng thành, nhưng đệ tử của ta quá đông, ta không muốn
làm gánh nặng cho ông, nên ta nghĩ tốt nhất là thôi vậy, không phiền đến
ông.
– Thưa không đâu, bạch Thế Tôn! Tuy làng con rất nhỏ, nhưng con tin rằng
cũng đủ sức để cúng dường Thế Tôn và chư tỳ-kheo, xin Thế Tôn đừng bận
tâm, dầu sao đi nữa cũng xin cho con được phép cúng dường.
Thôn trưởng một mực nài nỉ van xin, đức Phật chỉ còn cách gật đầu ưng
thuận. Thôn trưởng vui mừng cưỡi ngựa về làng lo chuẩn bị mọi thứ.
Ngoại đạo biết được chuyện này, vừa sợ hãi vừa oán giận, bèn dùng nữ sắc
đưa vào nhà của thôn trưởng, bày hoa thơm cỏ lạ, hương thơm ngào ngạt,
rồi lại bày cỗ bàn rượu thịt ê hề, thắp đèn ánh sáng mờ ảo, người đẹp
như mây trời khiến một khi thôn trưởng bước chân vào nhà là tâm trí hoàn
toàn ám độn. Trải qua một đêm, sáng hôm sau thôn trưởng căn dặn người
nhà rằng:
– Đương lúc thiên hạ thái bình, từ hôm nay cho tới hết ba tháng mùa mưa
ta sẽ ở trên lầu cao này nghỉ ngơi, bất cứ chuyện gì, dầu vui hay buồn
ta cũng đều không muốn nghe đến.
Thôn trưởng bị lọt vào bẫy của ngoại đạo nên hoàn toàn quên bẵng chuyện
phải tiếp đãi đức Phật.
Nhân duyên của làng này đối với đức Phật hãy còn cạn cợt, lại trúng nhằm
một năm mà côn trùng làm hại mùa màng, cả làng bị sa vào cảnh thiếu thốn
nên không một người nào chịu bố thí cho đức Phật hay chư tỳ-kheo một
chút gạo hay một chút nước. Đức Phật và chư tỳ-kheo chỉ còn biết nhẫn
nhục chịu đựng ở phía bên ngoài thôn Tỳ Lan Nhã.
Lúc ấy, có một người buôn ngựa dẫn theo 500 con ngựa từ nước Ba Lợi đi
ngang qua chỗ ấy, thấy vậy bèn thưa với các vị tỳ-kheo rằng:
– Con không có bao nhiêu lương thực để cúng dường quý thầy, chỉ có xác
lúa mạch cho ngựa ăn, quý thầy có dùng được không?
– Chúng tôi rất cảm tạ thịnh tình của ông, nhưng chưa được đức Phật hứa
khả thì chúng tôi không dám nhận thức ăn của ngựa. Xin đợi chúng tôi vào
thỉnh ý đức Phật rồi mới dám quyết định.
Đức Phật tán thán rằng:
– Đã lâm vào cảnh đói khát như thế này mà các ông còn ít mong cầu và
biết đủ, không dám làm ngược lại lời giáo huấn của ta, ta rất an lòng.
Các ông có thể thọ nhận thức ăn của ngựa mà ông lái buôn cúng dường.
Lúc ấy các vị tỳ-kheo mới thuận tiếp nhận thức ăn của ngựa. A Nan cũng
được một phần, bèn đem lúa mạch ra nghiền thành bột hòa với nước nấu
thành cháo đem lên cúng dường đức Phật. Các vị tỳ-kheo cũng xay xác lúa
mạch ra rồi nấu lên mà ăn.
Mục-kiền-liên thấy tình trạng đáng thương ấy bèn thưa với đức Phật rằng:
– Bạch Thế Tôn! Con suy nghĩ thật kỹ rồi, ở chỗ này không thể có thức ăn
được, con muốn dùng thần thông đi chỗ khác mang ít lúa gạo về!
Phật dạy:
– Mục-kiền-liên! Không nên làm như thế. Tuy ông có thể dùng thần lực
mang thức ăn về, nhưng nhân duyên túc nghiệp không thể trừ diệt được.
Chỉ có nhẫn nhục là điều quan trọng nhất.
Mục-kiền-liên vâng lời dạy của đức Phật, cúi đầu lui đi.
Ba tháng nhẫn nhục chịu đựng cực khổ đã trôi qua, đức Phật và chư
tỳ-kheo đói khát nên tiều tụy thấy rõ, nhưng dẫu bị đói khát bức bách
đến đâu đi nữa, lòng tin của các vị ấy vẫn không hề bị lay chuyển mảy
may nào. Chư tăng đoàn kết, hòa hợp biết bao!
Qua hôm sau, đức Phật bảo A Nan:
– A Nan! Hãy cùng ta đi gặp thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhã xem sao!
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhã đang chìm đắm trong hoan lạc ngũ dục, vừa
vặn đứng trên lầu cao nhìn xuống, thấy vẻ tiều tụy của đức Phật và A Nan
trên đường đi tới. Thoạt đầu ông hoang mang như thể không hiểu tại sao,
rồi trong chớp mắt, ông thấy đầu óc choáng váng, mặt mày xây xẩm. Chờ
tỉnh táo lại, ông chạy như bay đến trước mặt đức Phật, khóc lóc thảm
thiết:
– Thế Tôn! Thật là đáng sợ! Con bị quỷ vương mê hoặc nên mới dám dối trá
lừa gạt thánh nhân. Con đã gieo trồng vô lượng vô biên hạt giống ác quả!
Xin Thế Tôn từ bi lân mẫn con, con không hề muốn điều ấy xảy ra, xin cho
con sám hối!
Đức Phật trầm tĩnh đáp rằng:
– Đúng vậy! Ông đã trồng hạt giống tội ác, thỉnh đại chúng mà không cúng
dường, không phải là ngu si lắm sao? Nhưng ta đã thấy ông phát tâm lúc
ban đầu ra sao rồi, nên nếu ông chân thành sám hối thì chỉ có sự sám hối
ấy là đáng kể mà thôi.
– Nay con đứng trước đức Phật tối tôn mà sám hối, xin Thế Tôn quán sát
tâm con. Từ hôm nay trở đi xin cho con được cúng dường trong vòng một
tháng, cho con được lấy công chuộc tội.
– Thôn trưởng, ba tháng vừa qua ta an cư ở phía ngoài thôn này không hề
dời chỗ. Bây giờ mùa mưa đã qua rồi, có rất nhiều chúng sinh đang chờ
mong ta cứu độ. Ngay hiện giờ ta đã nghe họ kêu gào tên ta, nên ta phải
rời khỏi nơi này lập tức.
– Xin Thế Tôn niệm tình con!
Vừa nói, thôn trưởng vừa hướng cặp mắt van nài nhìn sang A Nan đang đứng
gần bên đức Phật, nói tiếp:
– Tôn giả A Nan! Xin ngài vào nói hộ con một tiếng! Ít nhất cho con được
cúng dường ngày mai, làm một bữa cơm đạm bạc để tiễn biệt, và cho con cơ
hội sám hối với chư tỳ-kheo!
Đôi mắt từ bi của đức Phật phóng ra một tia sáng thương xót, Ngài chấp
thuận lời cầu xin cuối cùng của thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhã.
Suốt ngày và suốt cả đêm hôm ấy, thôn trưởng thôn Tỳ Lan Nhã đã chuẩn bị
một bữa cơm tiễn biệt rất thịnh soạn, rồi hôm sau dùng tâm tri ân và tâm
cung kính đi thỉnh mời đức Phật và chư tỳ-kheo vào thôn. Cơm nước xong,
thôn trưởng đem bốn tấm y bằng vải rất đẹp, cùng một đôi dép cỏ cúng
dường lên đức Phật, và 2 tấm y vải cùng một đôi dép cỏ cúng dường mỗi vị
tỳ-kheo.
Thôn trưởng và tất cả mọi người trong thôn đưa tiễn đức Phật và chư
tỳ-kheo, tay vẫy mà nước mắt ràn rụa, tự than rằng thiện căn của mình
quá mỏng manh nên không cúng dường được đức Phật cho tử tế đàng hoàng.
Khi đức Phật muốn ra đi thì không có thế lực, không có lời nói nào có
thể ngăn trở được Ngài. Cũng như khi đức Phật không muốn đi, thì dù bất
cứ sự khốn khó bức hại nào đi nữa, Ngài cũng có thể nhẫn nhục chịu đựng
được.