41. Đại Ca Diếp quy y
Có một hôm, đức Phật thị hiện tướng bệnh, ngài lặng lẽ nghỉ ngơi tịnh
dưỡng. Vua Tần Bà Sa La nghe tin ấy, vội gọi ngự y là Kỳ Bà đi gặp Thế
Tôn để trị bệnh cho Ngài.
Khi đức Phật đã lành bệnh, ngự y Kỳ Bà cứ muốn đem một lễ vật nào để
cúng dường Ngài, nhưng nghĩ tới nghĩ lui hoài, ông không biết phải tặng
lễ vật nào mới thích hợp. Cuối cùng, ông nhớ đã có lần chữa bệnh cho vua
nước láng giềng, và vị vua này đã đền ơn ông bằng cách tặng một bộ quần
áo thượng hảo hạng. Loại quần áo này ngoài những bậc đế vương ra thì duy
chỉ có đức Phật mới xứng đáng mặc mà thôi. Ông đem bộ quần áo nói trên
dâng lên đức Phật và nói:
– Thế Tôn, từ khi con bái kiến Như Lai cho đến nay, trong lòng cứ thắc
mắc một chuyện. Thế Tôn thường nói, trên thế gian này thân thể của chúng
ta khả dĩ đáng quý trọng, thế nhưng con thấy các vị đệ tử của Thế Tôn
thường mặc quần áo rách rưới, dơ bẩn. Đứng trên cương vị của một y sĩ,
con thấy có giải thích như thế nào đi nữa, làm như thế vẫn không hợp vệ
sinh. Bộ quần áo này là do vua nước láng giềng thưởng tặng cho con, xin
cho con được đem cúng dường Phật, cho con được trồng chút ít hạt giống
phúc đức. Con cũng cúi xin Thế Tôn hãy nói với chư tỳ-kheo, từ nay đừng
mặc quần áo dơ bẩn rách rưới nữa.
Đức Phật không hề cố chấp vào một điều gì, nên đón nhận ý kiến của Kỳ Bà
một cách vui vẻ, và cho người đi truyền nói với chư đệ tử tỳ-kheo rằng:
– Mặc quần áo, không cần biết cũ hay mới, đều phải đơn sơ và sạch sẽ, và
nhất định phải được khử trùng bằng ánh sáng mặt trời. Nếu như tham đắm
ưa thích những bộ quần áo đẹp đẽ sang trọng là một điều không phải, thì
mặc y phục dơ bẩn rách rưới để tỏ ra mình là người học đạo cũng không
đúng pháp.
Lời đức Phật được truyền ra rồi, dân chúng thành Vương Xá bèn tranh nhau
may rất nhiều quần áo đem cúng dường chư tỳ-kheo. Người cúng dường đức
Phật và chư tỳ-kheo rất đông, nên tin đồn ấy truyền đến tai một vị đại
phú hào.
Vị phú hào ấy tên là Đại Ca Diếp, ở thôn Ma Ha Sa La Dà cách thành Vương
Xá không xa lắm. Ông thông minh học rộng, giàu có nhất thiên hạ, là nhân
vật xuất chúng nhất của giai cấp Bà-la-môn. Mỗi khi đức Phật thuyết pháp
tại tinh xá Trúc Lâm, ông đều đến nghe giảng. Cuối cùng tâm ông từ từ
thâm nhập những lời giảng của Như Lai, ông còn nghĩ đến việc xuất gia
theo Phật nữa.
Một hôm trên đường về, ông vừa đến gần tháp Đa Tử ở thành Vương Xá,
trong một vùng có rất nhiều gốc cây to cành lá xum xuê giao nhau, thì lạ
thay, đức Phật cũng đang ngồi ngay tại đấy mà tĩnh tọa. Ông nhìn mãi đức
Phật trang nghiêm, uy nghi dường ấy, và thấy rằng không thể không đến lễ
lạy Ngài. Ông đến trước toà Như Lai chắp tay đảnh lễ xong, khẩn khoản
cảm động mà nói:
– Bạch Thế Tôn, bậc Thầy của con! Xin chấp nhận cho Đại Ca Diếp này quy
y, từ nay Đại Ca Diếp là đệ tử của Phật.
Đức Phật thấy rõ tín tâm của Đại Ca Diếp nên nói:
– Đại Ca Diếp, ông là đệ tử của ta, ta là thầy của ông. Trên thế gian
này, nếu ai chưa chứng được Chính đẳng Chính giác thì không thể thu nhận
ông làm đệ tử. Ông hãy đi cùng ta.
Đức Phật lẳng lặng đứng dậy, hướng về phía tinh xá Trúc Lâm mà đi, Đại
Ca Diếp đi sau lưng đức Phật một cách cung kính mà nước mắt ròng ròng
tuông xuống. Đức Phật quay đầu lại nhìn Đại Ca Diếp rồi nói:
– Hôm nay ta biết cơ duyên được độ hóa của ông đã đến. Tốt lắm, sau này
việc lưu truyền Phật Pháp sẽ cần đến ông rất nhiều.
Đức Phật hóa độ Đại Ca Diếp rồi, Phật Pháp tại thành Vương Xá đã có cơ
sở vững chắc, tinh xá ở núi Linh Thứu cũng đã được thành lập vào thời
điểm này. Vua chúa, người trí thức đến quy y rất đông, và sự giáo hóa
của đức Phật càng được phổ biến thêm.