5. Con chó biến thành bà hoàng
Vào thời Phật pháp thịnh hành ở Trung Ấn Độ, trong một toà thành nọ, có
vị đệ tử tại gia của đức Phật phát tâm cúng dường một vị tỳ-kheo, đi tìm
hỏi khắp nơi mới gặp được một vị tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán, bèn
thỉnh vị này mỗi ngày đến nhà mình để cúng dường.
Trong nhà vị cư sĩ nói trên có nuôi một con chó, khi vị tỳ-kheo dùng cơm
thì con chó ngồi xổm bên cạnh bàn. Vị tỳ-kheo thuận tay nắm một viên cơm
cho con chó ăn. Con chó được ăn nên có rất nhiều thiện cảm với vị
tỳ-kheo.
Vị tỳ-kheo mỗi ngày đến ăn cơm, thì con chó cũng mỗi ngày được ngài cho
ăn. Con chó nhớ tưởng đến vị tỳ-kheo, vị tỳ-kheo cũng biết được tâm niệm
của con chó nên cứ tới giờ là cho nó một nắm cơm. Do đó con chó càng
thêm thiện cảm đối với vị tỳ-kheo.
Cứ thế trong suốt một năm trời, con chó đến lúc chết, đầu thai trong
hoàng cung của vua nước An Tức làm công chúa.
Sinh ra, cô đã biết kiếp trước của mình, lúc còn làm chó trong nhà một
vị cư sĩ và ngày ngày chia cơm với vị tỳ-kheo, sự việc ra sao cô đều nhớ
rõ ràng.
Một hôm, vua nước Nguyệt Đê phái Sử Tiết đến nước An Tức. Vua nước An
Tức thấy Sử Tiết là người hiền lại có tài và rất thông minh nên gả công
chúa cho Sử Tiết, bảo đưa công chúa về nước Nguyệt Đê.
Công chúa theo chồng về nước Nguyệt Đê, mỗi lần gặp một vị tỳ-kheo xuất
gia là trong lòng cô rất vui mừng. Cô hồi tưởng lại lúc trước còn mang
thân chó, nhờ được một vị tỳ-kheo cho ăn cơm, có thiện cảm đối với ngài,
nên kiếp này mới được thân người. Để tỏ lòng tri ân báo ân, cô nghĩ tốt
nhất là nên lập đàn trai thật lớn để cúng dường tăng chúng.
Phật pháp tại nước Nguyệt Đê rất hưng thịnh, tỳ-kheo xuất gia rất đông.
Mỗi ngày công chúa đem thức ăn đến cúng dường cho từ 400 đến 500 vị, tất
cả đều một tay cô lo liệu, tuyệt đối không mượn ai khác làm thay. Lo
việc cúng dường hoàn tất rồi, cũng chính tay cô lo việc chùi rửa dọn
dẹp. Người hầu, nô tỳ trong nhà đều một lòng tán thán cô, và đặt cho cô
danh hiệu là “vương thí”:
– Công chúa tới chỗ này mà còn mỗi ngày tự tay lau chùi sạch sẽ thì
chúng ta cũng nên gia công nỗ lực!
Sau đó, bọn nô tỳ lén dấu chổi đi, nghĩ rằng họ sẽ tự lo việc chùi rửa,
không nên để công chúa làm những việc như thế nữa. Công chúa đòi lại
chổi mãi không được, bèn lấy từ trong rương một chiếc áo mới mặc hôm
trước, cuộn tròn lại làm cái chổi quét đất. Người chồng thấy công chúa
lấy áo làm chổi quét đất bèn nói:
– Tại sao nàng không dùng chổi lại dùng áo quét đất, như thế không uổng
phí lắm sao?
Công chúa trả lời:
– Trong tiền kiếp thiếp không hề có lấy một vật gì có thể dùng để bố
thí, chỉ có thiện tâm đối với một vị tỳ-kheo thôi mà kiếp này được hưởng
phúc báo, sinh ra làm công chúa. Thiếp chưa bao giờ phải lo mưu cầu sinh
sống, tự nhiên có được áo, thì dùng nó làm chổi có gì đâu là uổng phí?
– Tuy nàng lễ kính Phật pháp, cúng dường tỳ-kheo, nhưng ta chưa hề thấy
mấy ông tỳ-kheo cho nàng được một đồng nào, trong khi đó áo nàng mặc là
do ta lao lực kiếm tiền mà có.
Người chồng nói như thế để khuyên bảo công chúa. Công chúa bèn giải
thích cho chồng hiểu:
– Thiếp còn nhớ được rằng kiếp trước thiếp là một con chó, được nuôi
trong nhà một vị đệ tử của đức Phật. Mỗi ngày có một vị tỳ-kheo đến nhà
người này dùng cơm, thiếp bèn ngồi ở dưới bàn đợi vị tỳ-kheo nọ bốc một
nắm cơm cho thiếp ăn. Thiếp rất có thiện cảm với tỳ-kheo, do nhân duyên
ấy mà kiếp này đầu thai vào trong nhà quốc vương. Thiếp xin hỏi chàng,
tất cả những gì thiếp có hôm nay không phải là do vị tỳ-kheo ấy ban cho
thiếp hay sao?
Người chồng nghe xong, thấy vợ nói rất có lý, bèn nói:
– Nàng chỉ có mỗi một sự là đem thiện tâm đối xử với một vị tỳ-kheo mà
được phúc báo to lớn như vậy, Phật pháp quả là không thể nghĩ bàn!
Sự thật thì người chồng này hơi có chút bủn xỉn, nhưng khi được công
chúa kể cho nghe chuyện nhân quả phúc báo thì tâm liền biến chuyển, từ
đó biết bố thí cho người nghèo, cúng dường chư tăng mà không sinh lòng
tiếc rẻ, giúp cho Phật pháp được hoằng dương trong dân gian.