48. Tình đời
Thành Vương Xá là một khu đất hình lòng chảo nằm trên núi cao, bốn phía
có vườn tược bao quanh, cây cối rậm rạp, khí hậu ôn hòa, ấm cúng, quốc
thái dân an, phong điều vũ thuận. Vua của vương quốc này là A Xà Thế,
vốn tin Phật, thương dân, trị nước đúng cách, rất được lòng người.
Trong vương quốc có nhà một ông đại phú hộ, kho vàng đầy ắp, tiền tài
nhiều không ai sánh bằng, nhưng hai vợ chồng cưới nhau đã lâu mà không
có được một đứa con nào. Vì thế hai người đi cầu thần linh, xem bói toán
khắp nơi, lại siêng làm việc thiện, bố thí để cầu xin một đứa con trai.
Cuối cùng trời không phụ lòng người, tới một năm kia thì hạ sinh một cậu
quý tử trắng trẻo bụ bẫm. Đứa bé này sinh ra thật không giống người
thường, không biết kiếp trước đã gieo trồng phước đức gì mà các đầu ngón
tay của cậu đều phóng ra ánh sáng cát tường, sáng như mặt trời, mặt
trăng. Vì đầu ngón tay của cậu phóng ra ánh sáng có thể làm tan biến
được bóng tối, nên cậu được đặt tên là Đăng Chỉ (đèn trên ngón tay).
Không những Đăng Chỉ có ngón tay phóng ra ánh sáng mà tướng mạo cũng
thanh tú đẹp đẽ, khiến cha mẹ vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, mời rất nhiều
thầy tướng số đến xem tướng cho con. Trong số các vị này có một người
tên là Khổ Tu, nhìn tướng của Đăng Chỉ xong nói với ông phú hộ rằng:
– Tôi thấy tướng đứa bé này lớn lên không giống người thường, tương lai
chắc chắn sẽ là thánh nhân.
Ông phú hộ nghe thế mừng rỡ không kể xiết, nên lúc Đăng Chỉ đầy tháng,
ông lập đàn bố thí rất lớn trong suốt 7 ngày, hai vợ chồng nguyện hồi
hướng công đức bố thí ấy cho tương lai con trai được nhiều sự tốt đẹp
hơn nữa.
Tin phú ông lập đàn bố thí chỉ trong vòng một ngày là được loan truyền
đi khắp cả nước, ai ai cũng khen ngợi tán thán. Nhà vua nghe được tin
này cũng vui mừng khôn cùng, sai sứ thần đến nhà ông phú hộ bảo muốn
triệu Đăng Chỉ vào cung cho vua gặp.
Vua đã truyền lệnh, ai dám không tuân, phú ông lập tức mang đứa bé mới
đầy tháng đi gặp nhà vua. Đường đi rất xa nên khi phú ông đến hoàng
thành thì trời đã tối. Khi ông đến trước cửa hoàng cung, bỗng nghe tiếng
chiêng trống rầm trời, thì ra trong cung có một buổi tiệc rượu đang được
cử hành. Vì thế phú ông đứng ở ngoài rất lâu mà không ai vào thông báo,
chẳng vào trong cung được.
Đang trù trừ do dự, bỗng hài nhi đưa tay lên, từ các đầu ngón tay phát
ra ánh sáng chiếu khắp cả cung điện, từ trong ra ngoài chói ngời rạng
rỡ. Lúc ấy vua và các đại thần đang ngồi trong bàn rượu, bị luồng ánh
sáng chiếu đến chói lòa cả mắt, họ lấy làm kinh dị hỏi người trong cung
xem ánh sáng ấy từ đâu chiếu đến?
Các quan gác cổng vội vàng chạy ra xem rồi trở vào tâu tự sự cho vua
biết, vua lập tức hạ lệnh cho bồng đứa bé vào. Thế là phú ông và bà nhũ
mẫu bồng Đăng Chỉ đến trước mặt vua, ánh sáng từ các đầu ngón tay cậu
chiếu rực cả gian phòng, và còn làm cho tất cả mọi người trong phòng cảm
thấy ấm áp nữa.
Dáng vẻ thanh tú cuả Đăng Chỉ đã chiếm được cảm tình của vua, vua tự tay
bồng lấy đứa bé, nhìn nó không ngừng và nghĩ rằng lời thuyết giảng của
đức Phật về nhân quả không bao giờ sai lầm. Nếu như đứa bé này không tạo
nhân thiện trong kiếp trước thì đời này làm gì có một dung mạo đẹp đẽ
như thế, và đầu ngón tay làm gì có thể phát được ánh sáng? Những điểm
đặc biệt của Đăng Chỉ được mọi người tán thán, và vua ban cho phú ông
rất nhiều trân bảo trước khi cho phép ông bồng con về nhà.
Ngày tháng qua mau, Đăng Chỉ lớn lên và thành người trong sự yêu thương
chiều chuộng của cha mẹ. Năm cậu 20 tuổi, cha mẹ cậu chọn cho cậu một
thiên kim tiểu thư môn đăng hộ đối và cử hành hôn lễ. Hai vợ chồng ăn ở
với nhau rất hạnh phúc.
Họ sống một cuộc sống phú quý vinh hoa với tiền muôn bạc triệu, nô tỳ,
tùy tùng, nhà cửa, quần áo, điều chi cũng đầy đủ, cả ngày đắm mình trong
hoan lạc nên quên hẳn những sầu lo của kiếp người.
Nhưng thế gian vô thường, biến hóa không ai lường được, có thành thì
phải có bại, có niềm vui tụ họp thì cũng có nỗi buồn phân ly, có ngày
hôm nay cường thịnh thì cũng có ngày mai suy nhược. Nhưng phần đông con
người, lúc sống trong hạnh phúc tuyệt nhiên không hề nghĩ đến chuyện
khổ, không, vô thường. Đăng Chỉ cũng vậy, khi cha mẹ còn sống, tiền của
đầy kho, vợ chồng đầm ấm, ngũ dục lạc thú tha hồ tận hưởng thì lo làm gì
đến tương lai?
Thế rồi không bao lâu sau, cha mẹ cậu là những người thương yêu cậu
nhất, cùng theo nhau mà nhuốm bệnh và qua đời.
Từ trước tới nay Đăng Chỉ chẳng bao giờ biết lo việc nhà, lúc ấy hoàn
toàn bó tay, không biết cách nào mà cai quản gia nghiệp. Lại còn quen
thói coi tiền như cỏ rác, rượu chè phóng đãng, cho nên tài sản trong nhà
nhanh chóng sa sút. Tuy hoàn cảnh ngày càng khó khăn nhưng Đăng Chỉ
không hề lo lắng chút nào.
Một hôm, trong một buổi lễ lớn cử hành hằng năm, có rất nhiều thanh
thiếu niên công tử tham gia, thôi thì quần là áo lượt, rượu thịt ê hề,
vui đùa thỏa thích. Lần ấy dĩ nhiên Đăng Chỉ không ra ngoài lệ, cậu cũng
gia nhập vào đoàn người náo nhiệt và cũng quay cuồng múa hát ăn chơi
không hề kiềm chế.
Trong lúc Đăng Chỉ dự tiệc vui tìm lạc thú, thì ở nhà, vợ cậu bỏ về nhà
bố mẹ. Căn nhà thênh thang không ai trông coi, bọn nô tỳ và người làm
thấy tài sản thì động lòng tham, mở cửa kho, còn lại bao nhiêu tiền tài
bảo vật lấy hết sạch, ngay cả dụng cụ, quần áo trong nhà cũng đem đi
luôn, không chừa lại thứ gì.
Đến gần tối Đăng Chỉ trở về nhà thì thấy căn nhà đã trống rỗng, người và
vật không còn lại gì cả. Tuy cậu biết chính là bọn nô tài đã cướp đi,
nhưng không có cách nào rượt bắt họ lại được, vì trong hoàn cảnh hiện
tại của cậu, trong tay không một đồng xu cắc bạc, ai là người chịu giúp
đỡ cậu đây?
Cậu buồn bã thở than mà cũng không ai ngó ngàng tới cậu, chính người vợ
mà cậu yêu thương nhất cũng chán ghét cậu mà bỏ đi rồi. Đến lúc ấy cậu
mới tiếc là tại sao lúc trước mình không làm người tốt, không lo cầu
học, bây giờ không có một năng khiếu nào hết, mà gia tài cha mẹ đã khổ
công tạo lập nay cũng không giữ được. Kho vựa sạch trơn, chỉ còn có bốn
vách nhà trơ trọi, cậu một mình một thân không có cơm ăn áo mặc, đói
lạnh giày vò.
Mới ngày nào còn là một cậu công tử con nhà phú hộ mà trong nháy mắt đã
thành một kẻ ăn mày khốn khổ, Đăng Chỉ xưa kia vốn tuấn tú bảnh bao, mà
khi gặp cảnh nguy nàn rồi thì thân hình cũng biến đổi, ngón tay không
còn phát ra ánh sáng nữa.
Đăng Chỉ luân lạc thành kẻ ăn xin, bạn bè thân hữu không còn ai lai
vãng, họ hàng bà con cũng cắt đứt mọi liên hệ với cậu. Gặp cậu, không
còn ai tươi cười chào hỏi, ai cũng quay đi hay lánh xa, hoặc xua hoặc
đuổi. Hoàn cảnh bi thảm ấy khiến cho Đăng Chỉ cảm thấy được sự nhạt nhẽo
của cuộc sống, nhưng cậu cũng không thể không miễn cưỡng tiếp tục cuộc
sống ấy.
Cuối cùng, để kiếm ăn, cậu tìm được một việc làm, đó là đi vác tử thi
mướn. Khi con người đến chỗ tuyệt vọng thì đứng trước một việc gì cũng
không thiết suy nghĩ xa xôi, Đăng Chỉ vác tử thi cho người khác vì đó là
một công việc chẳng ai muốn làm, và cậu làm việc ấy chẳng qua cũng chỉ
vì miếng cơm manh áo mà thôi.
Có một lần, Đăng Chỉ vác một tử thi đến một ngôi mộ hoang, tính bỏ tử
thi xuống thì lạ thay, tử thi ấy bỗng nhiên ôm cứng lấy cậu. Cậu hết sức
bình sinh hất tử thi ra, nhưng tử thi lại càng ôm chặt hơn nữa, không
chịu lơi tay như thể đã bị đóng đinh vào lưng của cậu vậy.
Đăng Chỉ sợ cuống cả người, tự mình không thoát ra được nên chỉ biết
chạy đi kiếm người giúp đỡ. Đến thôn Chiên Đà La, cậu la lên cầu cứu, có
một vài thanh niên lực lưỡng đến giúp cậu, nhưng làm gì thì làm cũng
không gỡ tử thi ra được.
Lúc ấy có một vài người nhát gan thấy thế chạy ra mắng rủa Đăng Chỉ tại
sao lại đem tử thi vào thôn, và rất nhiều người nhặt đá ném cậu. Cậu vừa
đau vừa sợ, không biết phải làm cách nào. Bị đuổi ra khỏi thôn rồi, cậu
chỉ còn biết chạy càn loạn xạ, cuối cùng chạy đến cổng thành, muốn vào
thành nhưng người giữ thành vung gậy lên chặn đường, lớn tiếng xua đuổi:
– Tại sao ngươi ngu si quá vậy, cõng tử thi vào thành để làm gì, bộ
ngươi không biết phương hướng hả?
Đăng Chỉ chưa kịp đáp đã bị đánh một hèo vào chân. Nghĩ tới số phận đau
khổ hiện tại của mình, Đăng Chỉ ngửa mặt lên trời khóc rằng:
– Tôi xưa kia vốn con nhà hào phú, nhà bị cướp lấy hết, đến nỗi tuyệt
vọng mà lâm vào hoàn cảnh phải vác tử thi cho người kiếm sống, nào ngờ
oan nghiệp theo đuổi, bị tử thi bám chặt như bị đóng đinh vào lưng không
chịu buông ra, tôi phải làm sao đây?
Người giữ thành nghe những lời thống thiết của Đăng Chỉ cũng cảm thấy
tội nghiệp, nên để cho cậu đi qua, nhưng có ai muốn thân cận với một
người cõng tử thi kè kè trên lưng xui xẻo như thế? Không còn cách nào
nữa, Đăng Chỉ chỉ còn biết cõng tử thi về lại nhà cũ của mình. Lạ thay,
vừa mới bước vào cổng nhà thì tử thi cũng tự động rơi xuống đất.
Đăng Chỉ chú ý nhìn kỹ tử thi, thì quái lạ, trong bàn tay nắm lại của
cái thây cứng đờ kia có một thứ ánh sáng kim hoàng sáng chói phát ra.
Đăng Chỉ vui mừng nhấc bàn tay ấy lên xem, lúc đó cậu không còn sợ hãi
nữa, thì ra bàn tay ấy nắm một khối vàng không biết từ bao giờ.
Đăng Chỉ không còn để ý đấy là một tử thi hay là một cái gì đáng sợ, bèn
lấy một con dao nhỏ gỡ vàng ra, nhưng vừa mới gỡ khối vàng này xuống thì
có một khối vàng khác xuất hiện trở lại trong tay tử thi. Cứ thế cậu gỡ
thì vàng hiện, hiện rồi lại gỡ, chẳng bao lâu đã có một đống vàng lớn
trước mặt.
Đăng Chỉ quá đỗi vui mừng, bèn tu sửa lại nhà cửa vườn tược vốn đã bị bỏ
hoang từ lâu, nay trở thành huy hoàng tráng lệ, trong kho tiền bạc cũng
chất đầy trở lại như núi.
Có tiền rồi thì bạn bè họ hàng cũng từ xa chạy đến thăm viếng, cả người
vợ bạc tình xưa cũng xin trở về, thật đúng như người xưa dạy: “Nhà giàu
ở trong núi cũng có khách xa đến, nhà nghèo ngay phố chợ cũng không có
người thân ở gần.”
Đăng Chỉ rất buồn chuyện đời, những đau khổ vừa qua đã làm cho cậu tỉnh
ngộ phần nào rằng thế gian là vô thường, tiền tài không thật có, nên cậu
cũng không còn tham luyến nữa, đem số tiền ấy đi làm việc thiện, cứu
giúp người nghèo. Cậu cũng nhìn thấu rõ bản chất của ngũ dục nên xả bỏ
tất cả, xuất gia đi theo đức Phật, tinh tiến tu tập, chứng đắc được quả
A-la-hán rất mau lẹ.
Lúc ấy đầu ngón tay của cậu phát ra ánh sáng trở lại, chỉ có cái tử thi
tay có nắm vàng ấy là vẫn đi theo cậu, cậu đi đâu tử thi bám theo đó,
chỉ khi nào vào nhà mới tự động buông ra.
Mọi người thấy cuộc đời Đăng Chỉ lạ lùng như thế nên mới tìm đến đức
Phật xin thỉnh giáo. Đức Thế Tôn từ bi liền kể lại nhân duyên đời trước
cho mọi người được rõ.
Nguyên do là ngày xưa, Đăng Chỉ sinh ở nước Ba La Nại, giàu sang phú
quý, nhà lại ở ngay sát một ngôi chùa. Mỗi sáng sớm cậu đều vào điện thờ
Tam Bảo mà cung kính lễ bái thánh tượng của Như Lai. Có một hôm, cậu
thấy một ngón tay của bức tượng bị gãy, bèn phát tâm gắn lại một ngón
tay mới có sắc vàng, nhờ công đức ấy nên đời đời sinh ra trong nhà giàu
sang và ngón tay phát ra ánh sáng.
Nhưng tại sao có một lúc trong đời lại nghèo khổ như thế? Đó là vì lúc
trẻ, được cha mẹ hết mực cưng chìu, ai cũng phải nghe lời cậu nên cậu
trở nên kiêu căng. Có một lần đi chơi về khuya, cửa nhà đã đóng, cậu kêu
cửa thật lâu mẹ cậu mới ra mở cửa. Cậu bèn giận dữ mắng mẹ rằng: “Bộ
người trong nhà chết hết rồi sao mà gọi cửa cả đêm không ai biết?” Ác
duyên ấy đã làm cho đời nay Đăng Chỉ mất cha mẹ rồi thì lưu lạc thành kẻ
ăn xin, và phải vác tử thi mướn.
Lại một đời nọ, Đăng Chỉ sinh ra trong nhà giàu sang, kính tín Tam Bảo.
Có một lần, sau khi nghe thuyết giảng giáo pháp nên hiểu được sự vô
thường và đau khổ của kiếp người, liền cảm thán nói rằng: “Sự
Đức Phật kể nhân duyên này xong, còn nói với đại chúng rằng:
– Thế gian khổ, không, vô thường, không có gì là không hoại diệt. Ta
mong mọi người hiểu rõ điều ấy, đừng chỉ sợ khổ báo mà không sợ tạo nhân
ác.