15. Làm vua bảy ngày
Nước Ấn Độ có một vị vua nổi tiếng nhất, tài ba nhất, đức độ nhất, và
được dân chúng kính trọng ngưỡng mộ nhất, đó là vua A Dục. Sau khi Phật
nhập Niết-bàn chừng một trăm năm, vua A Dục đã thống nhất nước Ấn Độ và
để lại cho đất nước này một trang sử huy hoàng.
Vua A Dục là một vị Phật tử thuần thành. Lúc còn tại vị, không những ông
dốc lòng tin tưởng đức Phật mà còn hết sức tích cực lo việc truyền bá
Chánh pháp.
Để phát khởi lòng tin của dân chúng đối với Phật pháp, ông đã mất không
biết bao nhiêu là tâm trí lẫn công sức, tiền tài vào việc lập tháp cúng
dường đức Phật ở khắp mọi nơi.
Ngày hôm nay, nước Ấn Độ còn lại rất nhiều di tích của những chùa và tự
viện lớn. Rất nhiều trong số đó là những kiến trúc được xây lên từ thời
vua A Dục.
Vua hết sức nhiệt tình trong việc truyền bá và tự mình tu tập Phật pháp
nên bản thân có được một cuộc sống rất phong phú và an vui. Điều làm cho
ông buồn tiếc nhất là người em tên là Thường Tu, người em của ông, không
những không tin Phật mà còn tin theo tà giáo, đi đến đâu cũng hủy báng
Phật pháp. Vua A Dục thường khuyên răn ông, nhưng Thường Tu rất cố chấp,
vua không biết phải xử trí bằng cách nào.
Một hôm trời tối, Thường Tu bước vào hoàng cung, nói với vua A Dục rằng:
– Vương huynh! Hôm nay đệ khám phá ra một điều và nghĩ tới một số vấn
đề, không biết có thể nói với vương huynh không?
Thường Tu nói xong, mở to hai mắt nhìn thẳng vua A Dục, đợi lệnh của
vua.
– Thường Tu! Hiền đệ là người em mà ta thương mến nhất, từ trước tới giờ
ta không hề có sự phân biệt với hiền đệ, đệ nên thường giúp ta trong
việc trị nước mới phải, vậy có chuyện chi mà đệ không nói được với ta
chứ? Đệ muốn nói gì thì cứ nói đi!
Thường Tu bèn tỏ ra rất nghiêm chỉnh:
– Vương huynh! Đệ muốn nói với vương huynh một vài lời trung thật. Huynh
đối với mấy ông tỳ-kheo Phật giáo quá đỗi cung kính, quá đỗi ủng hộ mấy
ông ấy, coi chuyện Phật sự còn quan trọng hơn việc quốc gia. Đệ thấy mấy
ông tỳ-kheo chẳng có gì xứng đáng cho vương huynh cung kính tôn trọng
như thế cả, nên đệ khuyên vương huynh nên coi trọng việc nước hơn.
Những lời hủy báng của Thường Tu, vua A Dục nghe như những mũi tên đâm
vào tim, trong lòng rất buồn nên vội vàng ngăn lại rằng:
– Thường Tu, đệ hãy ngừng ngay những lời nói ấy. Hủy báng Tam Bảo là có
tội. Đệ không hiểu sự cao quý của các vị tỳ-kheo, họ là những người đã
đoạn trừ được ái dục, xa lìa thân quyến để xuất gia cửa Phật, khoác áo
cà-sa, hoằng pháp lợi sinh, tìm cầu sự an lạc cho nhân dân, cho xã hội.
Phật giáo có hưng thịnh thì đất nước mới ổn định được.
Nghe những lời của vua A Dục, Thường Tu đã không đồng ý mà còn nói rằng:
– Vương huynh! Huynh không nên tin họ như thế, cúng dường mấy ông
tỳ-kheo ấy thì có lợi ích gì? Đệ thấy không những vô ích cho quốc gia,
mà còn có hại đối với nhân tâm. Cả ngày họ không làm việc, ngồi đó mà
hưởng phúc, không lẽ dân chúng không muốn bắt chước sống như thế hay
sao? Hơn nữa, huynh nói họ là những người đã đoạn trừ ái dục, kỳ thật
chuyện ấy không thể nào có được. Huynh xem, loài vật còn biết thế nào là
tình ái, huống chi là loài người?
Những tà ngôn tà kiến ấy làm cho vua A Dục rất buồn khổ, cuối cùng ông
nghĩ ra một giải pháp để sửa đổi quan niệm lầm lạc của Thường Tu.
Một hôm vua A Dục bí mật gọi một vị đại thần vào cung, căn dặn phải làm
như thế, như thế... Vị đại thần lập tức vâng theo lời dặn dò của vua mà
thi hành.
Vào lúc trời chạng vạng tối, vua A Dục đang tắm ngoài ao, thì vị đại
thần nọ cùng Thường Tu bước vào cung, thấy vua A Dục vắng mặt mà vương
mão cùng long bào thì bày ngay đấy, vị đại thần bèn nói với Thường Tu
rằng:
– Thân vương! Tướng mạo, khuôn mặt của ngài và đại vương hết sức giống
nhau, nếu ngài khoác long bào vào thế nào cũng có người lầm tưởng ngài
là vua A Dục. Thân vương, ngài làm thử mà xem!
Thường Tu biết đây là một việc phạm pháp, nhưng tâm hiếu kỳ và tâm hư
danh thúc đẩy, ông bèn mặc long bào và đội vương mão lên. Đúng ngay lúc
ấy vua A Dục bước vào, thấy thế nổi giận, trách mắng Thường Tu rằng:
– Ngươi thật là to gan, dám lén lấy áo mão của ta mà mặc, có phải là
ngươi muốn làm phản không? Ngươi tính chuyện soán ngôi, có phải chăng?
Chứng cớ đã rành rành, Thường Tu còn chạy chối vào đâu được? Vua A Dục
hạ lệnh:
– Đem hắn ra ngoài cửa thành chém đầu lập tức!
Vị đại thần nọ bèn vội vàng tiến đến can gián:
– Đại vương! Thường Tu là em vua, không phải người ngoài, hơn nữa đây là
lần đầu tiên xúc phạm long nhan, xin đại vương tha tội cho thân vương!
Vua A Dục nhìn xuống nét mặt ủ dột của Thường Tu, rồi đột nhiên hỏi:
– Thường Tu, ta hỏi ngươi, ngươi có thích làm vua không?
Thường Tu trả lời rất nhỏ:
– Tuy rất thích nhưng thần không dám vọng tưởng.
– Làm vua thì vui sướng ở chỗ nào?
Bây giờ thì Thường Tu đã lấy lại can đảm, trả lời rằng:
– Vua là người được tôn trọng nhất nước, những khoái lạc vua hưởng kể ra
không hết, mà những diễm phúc vua có thì nói ra cũng không cùng tận.
Đồng thời cũng không có ai ở trên cai quản vua, như thế không phải vui
sướng là gì?
– Được! Ngươi đã muốn làm vua thì ta nhường ngôi cho ngươi trong bảy
ngày, ngươi có quyền tận hưởng ngũ dục tùy thích. Nhưng mãn kỳ hạn ấy,
ngươi sẽ bị xử tử.
Vua A Dục quy định như thế xong bèn lui về hậu cung, và bí mật ra lệnh
cho một vị thị thần đến trước cửa nhà của Thường Tu, chờ ông này chiều
chiều từ cung điện trở về thì nhắc nhở một câu.
Người thị thần tay cầm thanh đao bén, đứng ngay tại cửa nhà, mỗi khi
thấy Thường Tu trở về thì lớn tiếng hô rằng:
– Thêm một ngày vừa mới trôi qua, còn mấy ngày nữa thì xử tử hình!
Thường Tu rất sợ chết, nghe thế mỗi ngày mỗi thêm phiền não, bất an.
Không những ông không khởi lên được một niệm dục lạc nào, mà còn lo âu
đến nỗi hình dung tiều tụy hẳn. Bảy ngày làm vua trôi qua trong khổ sầu,
đến sáng ngày thứ tám, vua A Dục lên ngôi báu trở lại, hai bên có văn võ
bá quan đứng hầu, hỏi Thường Tu rằng:
– Sao, ngươi làm vua bảy ngày, hẳn là đã hưởng thụ rất nhiều dục lạc
phải không?
Thường Tu nghe vương huynh hỏi như thế thì ủ rũ cúi đầu trả lời:
– Trong bảy ngày vừa qua, thật sự đệ không nghe, không thấy gì hết, nói
chi tới chuyện hưởng thụ. Mỗi ngày về đến cửa nhà, thấy tên thị thần tay
cầm thanh đao sáng loáng, miệng lại hô lớn số ngày còn lại, đủ làm cho
đệ ưu khổ rồi, còn tâm trí đâu mà nghĩ tới mấy thứ lạc thú kia nữa? Vì
thế cho nên trong bảy ngày qua, đệ không nhìn thấy, cũng không nghe thấy
gì cả.
Câu nói của Thường Tu làm cho vua A Dục hết sức vui lòng và yên tâm, ông
bèn nói:
– Thường Tu, các vị tỳ-kheo xuất gia thường tư duy đến vấn đề sinh tử
lớn lao ấy, vì thế họ không thể có tâm trí đâu mà sinh khởi niệm ái dục
hay tham luyến vật chất bên ngoài.
Vua A Dục còn thuyết rất nhiều pháp liên quan tới sự đau khổ của nhân
sinh đối với vấn đề sinh tử, khiến Thường Tu cảm động rơi lệ, bèn phát
tâm quy y Phật pháp và còn xin vương huynh cho phép mình xuống tóc xuất
gia nữa.