Xuân là hiện tại; Xuân là hiện pháp lạc trú
Mùa xuân đem đến cho nhân gian bao ước vọng, xuân về hoa nở, chim ca
Xuân thiên ấm áp nắng hồng
Chồi xuân trổ lộc cây lòng đơm hoa.
Như vậy, khi nói đến mùa xuân là diễn tả sự bình yên hạnh phúc, sự hiểu biết và thương yêu.
Từ ngàn xưa người Việt Nam chúng ta đã
được thấm nhuần tinh thần Từ Bi của đạo Phật, tổ tiên ta đã phật hóa gia
đình, giáo dục con cháu phải biết chia xẻ hạnh phúc, ban rải tình
thương đến mọi người, mọi loài, cỏ cây đất đá. Cho nên ngày xuân mọi
người chúc tụng những lời tốt đẹp, chia xẻ những thành quả của mình đến
mọi người. Bày biện tổ đường trang nghiêm cũng là để thể hiện tinh thần
uống nước nhớ nguồn của con cháu. Hơn thế nữa người ta còn đi trẩy hội
ngoạn thủy du sơn, tham lễ, dâng hương các đạo tràng, các danh sát của
chư vị tổ sư, hầu thăm các bậc chân tu, đạo hạnh để được lắng nghe những
kinh nghiệm tu tập, những lời dạy cao quý của các ngài, để lấy đó làm
kim chỉ nam định hướng cho con đường tu nhân học Phật.
Với truyền thống hộ quốc an dân của Phật
Giáo Việt Nam, ngày xuân các chùa thường tổ chức những lễ hội cầu cho
mưa thuận gió hòa, nhân dân an lạc. Trên tinh thần cao quý đó chư Tôn
đức Ban Trị Sự Thành Hội Phật Giáo TP.HCM tổ chức pháp hội Dược Sư Diên
Thọ kỳ quốc thái dân an, nguyện phong điều vũ thuận tại địa điểm chùa
Huê Nghiêm quận 2.
Vào ba ngày 17, 18 và 19 tháng Giêng xuân Quý Tỵ.
Đàn tràng được thiết kế theo đồ hình
Dược Sư Mạn Đà La với hình ảnh như một hoa sen nở trọn tám cánh. Mỗi
cánh sen có một Đức Phật được bố trí theo chiều thuận nghịch như sau:
1/ Đức Thiện Danh Xưng Kiết Tường Như Lai, ở quốc độ tên là Quang Thắng, cách thế giới Ta Bà 4 hằng hà sa Phật độ.
2/ Đức Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quang Âm Tự Tại Vương Như Lai, ở quốc độ tên là Diệu Bảo, cách thế giới Ta Bà 5 hằng hà sa Phật độ.
3/ Đức Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Như Lai, ở quốc độ tên là Viên Mãn Hương Tích, cách thế giới Ta Bà 6 hằng hà sa Phật độ.
4/ Đức Vô Ưu Tối Thắng Kiết Tường Như Lai, ở quốc độ tên là Vô Ưu, cách thế giới Ta Bà 7 hằng hà sa Phật độ.
5/ Đức Pháp Hải Lôi Âm Như Lai, ở quốc độ tên là Pháp Tràng, cách thế giới Ta Bà 8 hằng hà sa Phật độ.
6/ Đức Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Như Lai, ở quốc độ tên là Thiện Trụ Bảo Hải, cách thế giới Ta Bà 9 hằng hà sa Phật độ.
7/ Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Như Lai, ở quốc độ Tịnh Lưu Ly, cách thế giới Ta Ba 10 hằng hà sa Phật độ.
Bảy Đức Phật này đều ở về Phương Đông.
Ngụ ý sâu xa ở pháp hội Dược Sư Thất
Châu này là Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni muốn dạy cho chúng ta phải
hướng về nẻo ánh giác mà tiến tu, quá trình tu tập phải trải qua bảy
giai đoạn được tượng trưng mật nghĩa bằng bảy thế giới của bảy Đức Phật ở
phương đông.
Phương đông là nơi mặt trời xuất hiện,
xua tan bóng tối đêm dày. Càng gần Ta Bà bao nhiêu thì càng cách xa mặt
trời bấy nhiêu. Trái lại, càng xa Ta Bà bao nhiêu thì càng lại gần mặt
trời bấy nhiêu. Đó là ý nghĩa vi diệu của pháp hội Dược Sư mà chúng ta
cần phải quán niệm:
Muốn gần ánh sáng giác ngộ thì phải
tránh xa với hắc ám vô minh. Học Phật là bắt chước cách sống, cách làm,
cách nghĩ, cách nói luôn tĩnh thức của đức Phật, để chuyển hóa cách
sống, cách làm, cách nghĩ, cách nói thường mê lầm của chúng sanh. Tu tập
theo đạo Phật là phải đem tuệ giác tĩnh thức của đức Thế Tôn để chiếu
soi lại cuộc sống của phàm tình để thấy rõ mình là ai, mình đang bước đi
trên con đường nào, con đường đó có đưa mình đến cung điện niết bàn, an
vui hạnh phúc không?
Dược Sư là thầy thuốc; Dược Sư cũng có thể hiểu là một phương thuốc.
Lưu Ly Quang là ánh sáng trong suốt như ngọc lưu ly, tượng trưng cho ba nghiệp thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh.
Danh hiệu của bảy Đức Phật chính là bảy
phương thuốc để trị liệu thân bệnh, tâm bệnh, nghiệp bệnh của chúng sanh
bằng sự thanh tịnh. Nói theo tinh thần Phật học thì Hồng Danh, Đức Hiệu
của mỗi Đức Phật là một phương thuốc; là một pháp hành mà người học
Phật phải ứng dụng trong sinh hoạt hằng ngày để chuyển hóa khổ đau đem
lại an vui hạnh phúc.
Tu tập theo kinh Dược Sư, hành giả phải
lắng lòng thanh tịnh trì niệm danh hiệu của từng Đức Phật cho miên mật,
nghĩa là phải thường xuyên uống thuốc (Dược Sư) để đào thải các chất
phàm phu hắc ám ở trong mỗi chúng ta, và làm cho ánh sáng lưu ly an lành
xuất hiện, càng giảm vô minh si ái tăm tối, thì càng tăng ánh sáng lưu
ly tươi đẹp.
Pháp môn xưng danh là một phương pháp tự
kỷ ám thị, mà hiệu lực không thể đo lường, nếu chúng ta áp dụng một
cách chí thành chí khẩn. Nhưng hiệu lực ấy có cùng không có, it hay
nhiều đều tùy thuộc vào sự hiểu biết của chúng ta đối với ý nghĩa nằm
trong đức hiệu của chư Phật.
Có hiểu sâu ý nghĩa ấy mới thấm thía vào
lòng ta, ám ảnh ta. Rồi thời gian sẽ khắn khít với ta và trở thành
nguồn cảm hứng, từ đó sẽ lưu xuất ra những tư tưởng, ngôn ngữ và hành
động tương xứng với ý nghĩa ấy.
Ba cõi do tâm tạo
Muôn pháp từ thức biến
Thiên đường địa ngục, đau khổ an vui đều do tâm ta quyết định
Tu học theo pháp môn Dược Sư là phải thắp đèn trí tuệ liên tục.
Treo Thần Phan năm sắc, (phong độ, cách sống luôn tươi đẹp) để trang nghiêm tự thân, trang nghiêm pháp hội.
Đem chất liệu Từ Bi đượm thấm ba nghiệp
để lời nói, hành động và ý nghĩ đều có tính dược, hầu chuyển hóa khổ đau
của kiếp người và trị liệu những chứng bệnh trầm kha trong cuộc sống.
Giải kết giải kết giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết
Rửa sạch lòng trần phát tâm thành kính
Đối trước Phật đài cầu xin giải kết
Quy mạng Đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Xin Ngài ban ánh sáng lưu ly thanh tịnh cho mọi người để được sống an lành trong tuệ giác Từ Bi của Đức Phật.