Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn Độ giáo,
trong quan niệm của người cổ Hy Lạp, và nhiều vùng miền trên thế giới.
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật Giáo Việt Nam Net)
Theo quan điểm của nhiều người, cuộc sống không kết thúc khi xác thân
con người chết đi, mà linh hồn ấy đầu thai trở lại và bắt đầu một cuộc
đời mới.
Đáng ngạc nhiên là không phải chỉ Phật giáo mới có khái niệm luân hồi
và ý niệm về sự đầu thai, mà các khái niệm đó cũng tồn tại ở nhiều nơi
khác. Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, đạo Do Thái, Ấn Độ
giáo, trong quan niệm của người cổ Hi Lạp, và nhiều vùng miền trên thế
giới. Điều đáng kinh ngạc là nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quyển sách
Bible của đạo Thiên Chúa nguyên thủy có nhiều khác biệt so với hiện nay,
trong đó từng có cả những nội dung về sự luân hồi đầu thai, nhưng đã bị
một số thế lực chỉnh sửa và lược bỏ đi vào khoảng thế kỷ 4 và 5 vì
những nguyên do bí ẩn.
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 khi còn bé
Trường hợp tiêu biểu và nổi tiếng nhất về sự đầu thai và luân hồi chuyển kiếp có lẽ là việc đi tìm Đạt Lai Lạt Ma hay Ban Thiền Lạt Ma của Phật giáo Tây Tạng sau khi các Lạt Ma ấy qua đời. Những vị sư phụ trách việc này tiến hành
tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào thời điểm qua đời. Họ dựa vào
những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt của đứa trẻ mà tương hợp với vị Lạt
Ma đó khi còn sống, và cả những mô tả của vị Lạt Ma trước khi viên tịch
về kiếp sau của mình, để xác định xem đứa trẻ đó có phải là vị Lạt Ma
ấy đầu thai hay không.
Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều thời gian
và công sức nghiên cứu hiện tượng luân hồi. Kết quả là: Không ai giải
thích nổi tại sao những người “kiếp sau” lại có cách cư xử, thói quen
rất giống những người đã khuất, thậm chí biết cả những bí mật riêng tư
của họ, có những vết bớt khi mới sinh tương hợp kỳ dị với những vết
thương của người đã khuất, hoặc những đứa trẻ đi còn chưa vững đã biết
ngoại ngữ, biết làm toán, biết chơi đàn… giống y như những người mà
chúng nói là chính chúng trong tiền kiếp, mặc dù không ai chỉ dạy chúng
cả. Các kết quả thu được đó đã gây ra luận chiến dai dẳng giữa một bên
thừa nhận, và một bên cố gắng phủ nhận hiện tượng luân hồi. Những người
thừa nhận nói rằng, cách duy nhất để lý giải bí ẩn này là khoa học buộc
phải công nhận hiện tượng luân hồi như một thực tại khách quan hiển
nhiên mà thôi.
Trên thế giới đã có vô số trường hợp về sự đầu thai, gồm những trường
hợp lưu truyền trong dân gian, hay được lưu trữ trong các kho tài liệu
của các tu viện, các đền thờ, các thư viện và gần đây nhất là trong các Viện nghiên cứu Hiện tượng Luân hồi ở Hoa Kỳ, Ấn Ðộ, Anh, Pháp, Ý, Nga…
Sau đây là một số trường hợp Luân hồi đầu thai được ghi chép trong lịch sử.
Trường hợp Đại tướng George Smith Patton
Đại tướng George Smith Patton (11/11/1885
-21/12/1945) là một trong những viên tướng vĩ đại nhất lịch sử Hoa Kỳ,
một nhà chiến lược kỳ tài lừng danh thế giới. Một bộ phim đã được làm
năm 1970 để vinh danh ông. Tính ông nghiêm khắc và luôn luôn chủ trương
“kỷ luật sắt, kỷ luật là sức mạnh của quân đội”. Người hùng ấy, lạ lùng
thay, rất tin vào sự luân hồi. Ông thường bảo: “Cuộc đời và cuộc sống là một vòng tuần hoàn chuyển tiếp. Ðời tôi cũng nằm trong một vòng tuần hoàn chuyển tiếp nào đó”.
Một sĩ quan cao cấp của quân đội Hoa Kỳ kể lại câu chuyện mà ông nhớ mãi về tướng Patton:
Hôm đó tướng Patton đến thăm một địa danh lịch sử tại Ý. Ðó là vùng
đất nằm cạnh sông Métaure, nơi mà xưa kia, trong trận chiến ác liệt giữa
những đoàn quân dũng mãnh của đế chế Carthage và đế chế La Mã, đã để
lại trên chiến trường hàng ngàn tử thi, mặc dầu hai bên đều do những
chiến lược gia và danh tướng chỉ huy. Hình ảnh bi tráng ấy đã đi vào quá
khứ, và cách thời của tướng Patton đến hơn 1800 năm, nhưng khi tướng
Patton cùng các tướng lĩnh và một số nhà sử học đến thăm vùng đất này,
và thử luận bàn về những chiến thuật và chiến lược của trận đánh ấy thì
điều kỳ dị đã xảy ra. Trong khi tướng Patton nghe một viên Đại tá trình
bày những địa điểm đóng quân của hai phe Carthage và La Mã, ông nhiều
lần tỏ ý không hài lòng. Sau cùng tướng Patton cắt ngang lời viên Đại tá
và nói:
“Xin lỗi Đại tá, mặc dù Ðại tá là chuyên gia nghiên cứu các trận
chiến trong cuộc chiến tranh La Mã, nhưng tôi khẳng định rằng đoàn kỵ
binh của tướng Hasdrubul trong trận này không phải đóng tại địa điểm đầu
kia mà Ðại tá đã trình bày. Tôi quả quyết điều này vì một lẽ rất dễ
hiểu là vào lúc ấy, chính tôi đã có mặt tại đó…”
Và rồi, tướng Patton nghiêm nét mặt, đưa cao chiếc can cầm ở tay lên
chỉ về một địa điểm trước mặt và nói thật chậm rãi, rõ ràng:
“Ðó là địa điểm mà đoàn kỵ binh của Hasdrubul đã đóng quân, và tôi nhắc lại, lúc ấy tôi đã ở đó!…”
“Nó đây, chiến trường là đây. Những người Carthage đã phòng thủ
thành phố trước cuộc tấn công của 3 quân đoàn La Mã. Người Carthage kiêu
hùng và can đảm, nhưng họ đã không trụ vững được. Họ đã bị tàn sát.
Những người đàn bà A Rập đã lột quân phục, kiếm và những ngọn giáo của
họ. Những người lính đã nằm trần trụi dưới mặt trời, 2.000 năm trước
đây. Và tôi đã ở đó!”.
Trong những lần dừng chân nơi chiến trận hay những lúc nghỉ ngơi,
tướng Patto thường nói đến những địa danh và những chiến trường cổ xưa
mà ông đã từng có mặt, tuy những nơi đó đã đi vào quá khứ xa xăm hay chỉ
còn lại trong các pho sử liệu của các thư viện.
Trong nhật ký của mình, tướng Patton thường ghi lại những cảm nghĩ lạ lùng của mình về kiếp trước. Có đoạn ông viết:
“Tôi tin là có tiền kiếp và hậu kiếp. Tôi tin, thật ra là tôi
biết, rằng tôi đã có ít nhất là một quãng đời trước đây trong binh
nghiệp và hiện nay tôi lại đầu thai lần nữa vào đời binh nghiệp”.
Về sau, nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng nổi tiếng Aldons Huxley (26/7/1894 – 22/11/1963) đã trình bày trường hợp của tướng Patton cùng
câu chuyện lạ lùng xảy ra trong lần đi thăm chiến trường La Mã cổ xưa
ấy, trong một hội nghị quốc tế có chủ đề “Ứng dụng của Khoa tâm lý học”
tổ chức lần thứ 14 vào năm 1961. Aldons Huxley phát biểu: “Không
riêng gì tướng Patton mà ngay cả chúng ta, đôi lúc ở những thời điểm nào
đó trong đời bỗng ta có những cảm giác, những suy nghĩ, cái nhìn kỳ lạ
mà ý thức của chúng ta như bỗng nhiên hé mở, có khi ta bắt gặp một hình
ảnh, một sinh hoạt, một tiếng nói, một cảnh tượng, một con người mà hình
như ta có lần đã thấy, đã nghe, đã ở, đã đi qua, mặc dầu trong cuộc đời
chưa bao giờ gặp. Ðó là quá khứ, quá khứ ấy không phải trong một cuộc
đời hay nói khác đi là trong “một kiếp” mà là trước đó nữa. Cảm nhận ấy
đôi khi vượt ra khỏi những cảm nhận của các giác quan thông thường của
con người chúng ta, mà thuộc về quá khứ xa xăm, hay có thể gọi là tiền
kiếp”.
Tờ báo Paris Match danh tiếng đã đăng tải trường hợp của Đại tướng Patton vào ngày 23/3/1989.
Một số trường hợp khác
Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12/10/1908 ở miền trung Thái Lan,
tên thường gọi là Choti. Cha cậu tên là Nai Pae, mẹ là Nang Rieng. Ngay
khi mới biết nói, cậu bé đã khẳng định mình là Nai Leng, người bác ruột
của cậu bé đã mất từ trước khi cậu bé ra đời. Đáng chú ý là cậu có thói
quen gõ bàn giống hệt như người bác trai, có thể nói và đọc được các
thứ tiếng mà người bác lúc sinh thời từng học, và biết chính xác từng
chi tiết một trong cuộc đời ông ta. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở
Bangkok và sau đó xuất bản cuốn sách về cuộc luân hồi chuyển kiếp của
chính mình.
Tại làng Nathul, phía bắc Myanmar, cô gái M Tin Aung Myo sinh ngày
26/12/1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé luôn
tự xem mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật
đã bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m.
Cô bé rất sợ máy bay, nhất định không chịu mặc quần áo con gái, nói
tiếng Myanmar rất khó khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của
người Nhật, và luôn buồn nhớ quê hương Nhật Bản. Ma Tin Aung Myo cho
biết gia đình trước kia của “cô” ở miền Bắc nước Nhật. Trước khi nhập
ngũ, “cô” là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào quân đội thì làm đầu
bếp. Cô sống độc thân không chịu lập gia đình, bởi cô “là đàn ông” và
chỉ có thể kết hôn với phụ nữ mà thôi.
Có bao giờ bạn trải qua một cảm giác là dường như “đã từng nhìn
thấy” hay “đã từng ở” một nơi mà cả đời bạn chưa từng biết tới hay chưa?
Nhiều nhà khoa học khẳng định rằng chúng ta đã từng trải qua nhiều tiền
kiếp trong quá khứ, và sẽ còn những kiếp sau. Dưới đây là một số trường
hợp được nghiên cứu bởi các chuyên gia về lĩnh vực Luân hồi.
Trường hợp 1
Arnall Bloxham là nhà thôi miên nổi tiếng người xứ Wales sống giữa những năm 1970, là chủ tịch Hội các nhà thôi miên Anh quốc.
Ông đã sử dụng thuật thôi miên để chữa bệnh, hoặc giúp người ta loại bỏ
được những thói quen xấu chẳng hạn như hút thuốc. Bằng cách thôi miên,
Bloxham có thể giúp một người nhớ lại được thời điểm khi mới sinh ra, và
thậm chí trước thời điểm đó. Trong 20 năm, ông đã thôi miên vài trăm
người và đã ghi lại những miêu tả về các kiếp trước của họ.
Những gì diễn ra trong các cuộc thôi miên này làm đảo lộn những quan
niệm truyền thống về sự sống. Những người được thôi miên có thể thuật
lại, một cách tường tận chi tiết, về cuộc đời của những người đã từng
sống hàng trăm năm trước.
Bloxham đã ghi âm hơn 400 cuộn băng thu lại lời kể về các cuộc đời
trước của những người này trong các cuộc thôi miên. Hơn nữa, nhiều sự
việc đã được ghi lại một cách rất chi tiết, sau đó được kiểm tra lại
trong thực tế, và kết quả đều đúng như những gì họ mô tả. Theo Bloxham,
tất cả những điều đó đã chứng minh rõ ràng rằng: Luân hồi là có thật.
Một
trong những trường hợp nổi tiếng nhất mà Arnall Bloxham đã ghi lại là
trường hợp của Jane Evans. Vào năm 1971, khi cô thấy một tấm biển có
dòng chữ: “Arnall Bloxham nói rằng bệnh thấp khớp là do tâm lý” cô đã rất ngạc nhiên để ý. Jane là một bà nội trợ xứ Wales 32 tuổi mắc
bệnh viêm khớp, đã quyết định tìm cách liên hệ với chủ nhân của tấm biển
ấy. Cuối cùng cô đã liên lạc được với Arnall Bloxham nhờ một người bạn
của chồng cô. Qua các cuộc thôi miên, cô đã nhớ lại được 6 cuộc đời
trước đây của mình. Cô đã từng là: Vợ của một gia sư vào thời La Mã; Một
người Do Thái bị tàn sát vào thế kỷ thứ 12 ở thành phố York, nước Anh;
Người hầu của một thương gia giàu có thời trung cổ ở Pháp; Một tỳ nữ của
nữ hoàng Catherine của xứ Aragon (ngày nay thuộc Tây Ban Nha); Một nông
dân nghèo ở Luân Đôn dưới thời cai trị của nữ hoàng Anne; Và là một nữ
tu sĩ ở Mỹ vào thế kỷ 19.
Câu chuyện của Jane Evans và vài trường hợp luân hồi khác đã được công bố trong cuốn sách tựa đề “Nhiều Hơn Một Kiếp?”của
nhà sản xuất truyền hình BBC – Jeffrey Iverson. Vào năm 1975, để kiểm
nghiệm lý thuyết Luân hồi, Iverson đã xin phép Jane để Bloxham thôi miên
cô một lần nữa, lần này là trước các máy quay phim và máy thu thanh của
truyền hình BBC.
Iverson đã nghiên cứu kỹ lưỡng về những cuộc đời mà Jane kể lại, và
đã xác minh rằng những cuộc đời đó là có thực và các chi tiết được mô tả
là chính xác. Cuối cuốn sách, ông nói thành quả 20 năm nghiên cứu của
Bloxham đã cho thấy sự luân hồi là một hiện tượng thực tế khách quan.
Ông còn sản xuất một cuốn phim tài liệu BBC, có tên “Những cuốn băng ghi âm của Bloxham” dựa trên các tài liệu này.
Trường hợp 2
Bác sỹ Arthur Guirdham (1905-1992) là một nhà vật lý, bác sỹ tâm thần học, đồng thời là một
nhà văn. Ông đã viết nhiều cuốn sách về các Phương pháp trị liệu thay
thế, về Tri giác ngoại cảm và về Luân hồi. Ông từng sống tại Workington,
Cumberland, và tốt nghiệp tại trường đại học Oxford, Anh quốc.
Bác sỹ Authur Guirdham ghi lại nhiều trường hợp luân hồi mà ông đã gặp trong những cuốn sách của mình, “Chúng ta là người khác,”“Những người Cathars và sự Luân hồi”, “Một bàn chân trên cả hai thế giới”.
Ông cũng khẳng định rằng mình đã từng là một người theo tín ngưỡng
Cathars trong những kiếp trước. Cathars là tín ngưỡng đã tồn tại ở khu
vực Languedoc thuộc Tây Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 13.
Trong cuốn sách “Những người Cathars và sự Luân hồi” xuất
bản năm 1970, bác sỹ Guirdham đã kể lại tình huống kỳ lạ đã khiến ông
bắt đầu quan tâm nghiên cứu sự Luân hồi. Năm 1962, ông làm công việc của
một bác sỹ tâm thần tại khu dành cho bệnh nhân ngoại trú của bệnh viện.
Một ngày nọ, bệnh nhân của ông là một phụ nữ có tên thường gọi là
Smith, nghi mắc bệnh động kinh. Người phụ nữ này gặp một cơn ác mộng tái
diễn nhiều lần từ hồi còn bé. Trong khoảng thời gian đi bệnh viện ấy cô
bị những 2 hoặc 3 lần một tuần. Cơn ác mộng đó rất rõ ràng, là về một
cuộc đời của cô vào thế kỷ 13 tại Toulouse, Pháp, trong một gia đình
quen thân với một thầy tu tên Rogiet de Cruisot. Khi ấy cô là một cô gái
nông dân. Cô đã bị thiêu sống trên cột, còn Rogiet de Cruisot thì bị
bắt và chết ở trong tù.
Mặc dù bác sỹ Guirdham vẫn giữ bình tĩnh, nhưng ông vô cùng kinh ngạc
bởi chính ông cũng bị một cơn ác mộng giống y như vậy ám ảnh suốt hơn
30 năm qua, chỉ có khác là ông không biết được tên của người đàn ông đó mà thôi. Nhưng ông không nói gì với bệnh nhân. Lạ kỳ thay, từ đó trở
đi cô không gặp ác mộng trở lại nữa, rồi cả bác sỹ Guirdham cũng thoát
khỏi cơn ác mộng dai dẳng ấy.
Mặc dù vậy họ vẫn tiếp tục gặp nhau. Bác sỹ Guirdham chắc chắn nữ
bệnh nhân này không có vấn đề về tâm thần và những hiểu biết về quá khứ
của cô làm ông tò mò. Sau đó cô cho ông một danh sách tên của những
người mà cô nói là đã sống vào thế kỷ 13 và mô tả những gì đã từng xảy
ra với họ. Cô cũng nói với bác sỹ Guirdham rằng, ông cũng sống vào lúc
đó và chính là Rogiet de Cruisot.
Là một bác sỹ tâm thần, bác sỹ Guirdham đã từng biết qua về hiện
tượng luân hồi, nhưng không mấy quan tâm. Tuy nhiên, lần này ông thực sự
tò mò, và quyết định bắt đầu nghiên cứu. Ông khám phá ra rằng những cái
tên mà người nữ bệnh nhân ấy cung cấp quả thật chính xác, mặc dù những
người đó chỉ được nhắc đến sơ sài trong các ghi chép lịch sử từ thời
Trung cổ. Tuy nhiên, những ghi chép này được viết bằng tiếng Pháp chứ
chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh. Ông đã xác nhận rằng, quả thực có
một người đàn ông tên là Rogiet de Cruisot đã bị giết vào năm 1242. Các
chi tiết về gia đình từng quen thân với ông ta cũng hoàn toàn khớp. Hơn
thế nữa, tất cả những ghi chép riêng của bà Smith chứa nhiều thông tin
về các tín đồ và tín ngưỡng Cathar – mà cho đến lúc ấy vẫn chưa học giả
nào biết tới – về sau này đã được kiểm chứng là hoàn toàn chính xác.
Tín ngưỡng Cathar rất hưng thịnh ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc
nước Ý vào thời Trung cổ. Các tín đồ Cathar tin vào sự luân hồi. Theo
thời gian, bác sỹ Guirdham đã gặp được thêm nhiều người nữa, tổng cộng
11 người. Thật đáng kinh ngạc, tất cả họ đều có ký ức tiền kiếp rất khớp
nhau, cho thấy rằng họ đã cùng chung sống trong một nhóm tín đồ Cathar
hàng trăm năm trước.
Bác sỹ Guirdham cho biết: Không có đối tượng nào đã được gây mê hoặc
thôi miên; những cái tên và các sự kiện quá khứ chỉ đơn thuần xuất hiện
trong trí nhớ của họ. Ông cũng công bố một trong những bằng chứng đáng
chú ý nhất mà ông thu thập được. Đó là một tập tranh vẽ của một cô bé 7
tuổi, trong đó có những hình vẽ về một thời quá khứ. Tập tranh vẽ cũng
viết nhiều tên tuổi các tín đồ Cathar. Quá kinh ngạc, bác sỹ Guirdham
nói, “Tôi không thể tưởng tượng nổi, làm sao một đứa trẻ 7 tuổi có
thể biết những cái tên này, trong khi tôi chắc rằng không có nhà sử học
về thời trung cổ nào ở Anh quốc vào lúc đó biết về những người này”.
Những ký ức, tên tuổi và các mối liên hệ rõ ràng đã khiến bác sỹ
Arthur Guirdham buộc phải tin rằng ông và nhóm của ông đã cùng nhau sống
chung, không chỉ một, mà vài đời trước đó. Ông đã nói, “Với 40 năm
kinh nghiệm trong y học, hoặc là tôi biết được sự khác nhau giữa khả
năng siêu nhiên và bệnh tâm thần phân liệt, hoặc là chính tôi bị tâm
thần. Không ai trong nhóm tôi khùng cả – và cũng không có bạn đồng
nghiệp nào của tôi cho rằng tôi mất trí”.
Trường Hợp 3
Bác sỹ Ian Stevenson trong một buổi thuyết trình |
Giáo sư Bác sỹ Ian Stevenson, thuộc khoa tâm thần học tại Đại Học Virginia là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về lĩnh vực Luân hồi (xem phần 1).
Ông đã đi khắp thế giới để điều tra nghiên cứu những báo cáo khác nhau
về sự luân hồi và đã phát minh ra phương pháp kiểm chứng khắt khe nhằm
loại trừ sự gian lận, hiện tượng tiềm ký ức, v.v… Trong 200 trường hợp
nghi vấn luân hồi, chỉ có 20 trường hợp qua được chế độ kiểm tra kỹ
lưỡng của bác sỹ Stevenson. Có 7 trường hợp xảy ra tại Ấn Độ, 3 trường
hợp ở Sri Lanka, 2 trường hợp ở Brazil, 1 trường hợp ở Lebanon và 7
trường hợp của những người da đỏ ở Alaska, Hoa Kỳ.
Ở đây đơn cử trường hợp của bé gái rất nhỏ, sinh năm 1956 tại miền
trung Sri Lanka tên là Gnantilleka Baddewithana. Ngay sau khi cô bé bắt
đầu tập nói, cô đã bắt đầu nhắc đến cha mẹ khác, hai anh trai và nhiều
chị gái khác của mình ở một nơi khác.
Từ những chi tiết mà cô bé diễn tả, cha mẹ mới của cô đã tìm thấy một
gia đình tại thị trấn cách đó không xa. Họ biết được rằng gia đình này
đã mất một đứa con trai vào năm 1954. Khi Gnantilleka được đưa đến thăm
họ, cô bé nói mình chính là đứa con trai đã mất của họ và đã nhận diện
rất chính xác 7 thành viên trong gia đình của người đã khuất. Cho đến
tận lúc đó, hai gia đình chưa bao giờ gặp nhau, thậm chí chưa từng đến
thăm thị trấn của nhau.
Những người hoài nghi có thể phớt lờ và cho sự Luân hồi là ảo tưởng,
trong khi những người không tin sự Luân hồi có thể cho là mê tín dị đoan
vô căn cứ.
Từ thời xa xưa, Phật gia và Đạo gia; Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn Độ
giáo… đã luôn giảng về sự luân hồi. Họ hiểu rõ mối liên hệ giữa nhân và
quả. Họ tin rằng nhân cách của một người trong cuộc đời và tất cả những
việc làm tốt hay xấu của người ấy đều được ghi lại. Tính cách sẽ được
lưu giữ tới kiếp sau, sướng khổ đời sau sẽ tương xứng với việc làm của
kiếp trước. Tri thức của những chủng người cổ xưa vốn chưa thể đo lường
được, và chúng ta chỉ có thể sống thật tốt mà thôi.
Một trường hợp đầu thai ở Anh
Bộ phim tài liệu mang tên “Cậu bé sống từ tiền kiếp” (The boy
who lived before) đã được phát sóng trên kênh truyền hình Five nổi
tiếng của nước Anh vào ngày 18/9/2006. Trong bộ phim này đoàn làm phim
đã theo chân cậu bé Cameron tìm về lại ngôi nhà xưa của bé trong tiền
kiếp. Khi đó Cameron mới 6 tuổi.
Như mọi đứa trẻ lên 6 khác, bé Cameron Macaulay rất thích vẽ tranh.
Tuy nhiên, những bức tranh về tổ ấm thân yêu của em làm mẹ Norma không
khỏi lạnh người: một ngôi nhà màu trắng bên bờ biển của một hòn đảo nhỏ –
khác xa căn hộ chung cư trong thành phố Glasgow nơi họ đang sinh sống.
Đó là nơi họ chưa từng đặt chân đến bao giờ. Và bé bảo rằng người mẹ mà
bé đang nói đến ấy là “mẹ già” của bé. Tin chắc rằng mình đã từng sống
trong gia đình ấy ở tiền kiếp, Cameron lo lắng gia đình trước kia đang
quá thương nhớ mình. Cậu bé bảo hòn đảo nhỏ ấy tên là Barra. Hòn đảo
cách xa nơi họ sống tới 260km.
Bé Cameron Macaulay
Ngôi nhà màu trắng, bên bờ biển hòn đảo Barra
Cameron cũng luôn miệng kể về người thân “cũ” của em: có cha, mẹ, các
anh trai và chị gái – cả một gia đình lớn lúc nào cũng xôn xao tiếng
nói cười, chứ không hiu quạnh như cuộc sống hiện tại với mẹ Norma và anh
trai Martin. “Kể từ lúc bắt đầu biết nói khi mới lên 2 tuổi,
Cameron đã cố gắng kể cho tôi nghe hẳn một câu chuyện về “quá khứ” trên
đảo Barra” – cô Norma, nhớ lại – “Bé phụng phịu rằng nhà bé hồi
xưa có những 3 cái toilet, trong khi căn hộ Glasgow hiện giờ chỉ có mỗi
cái con con. Bé kể vanh vách mọi chi tiết về các thành viên gia đình:
bố Shane Robertson đã bỏ mạng vì “không quan sát cẩn thận 2 bên đường” –
tôi đoán ông ấy chết vì tai nạn ôtô, mặc dù Cameron không bao giờ nói
như thế cả; còn mẹ bé có mái tóc màu hạt dẻ dài ngang hông, rất hay
nhoẻn miệng cười… Lần nào nhớ lại thằng bé cũng khóc đỏ hai mắt, rồi
nằng nặc đòi tôi đưa trở về Đảo Barra để cho bố mẹ biết bé còn sống khỏe
mạnh như thế nào. Ban đầu người trong nhà ai cũng nghi Cameron bịa
chuyện, họ còn khen thằng bé có trí tưởng tượng phong phú bất ngờ. Tuy
nhiên sự việc trở nên nghiêm trọng khi càng lớn bé càng tỏ ra ủ rũ và
sầu thảm, chẳng thể làm cách nào giúp an ủi nguôi ngoai. Các cô giáo
trường mầm non cũng tỏ ra ái ngại khi nhìn chú bé con lúc nào cũng lưng
tròng nước mắt. Ngay cả lúc chơi đùa, bé cũng nhớ hồi trước đã chơi cút
bắt với các chị gái trên bãi đá ven biển ra sao…”.
Mẹ Norma và bé Cameron tại thành phố Glasgow
Gia đình Macaulay không dư dả tài chính cho lắm, bởi một mình mẹ
Norma phải làm việc để nuôi nấng hai anh em Martin và Cameron. Do đó mãi
đến tháng 2/2006, ước nguyện về Đảo Barra của cậu bé mới thành hiện
thực nhờ sự tài trợ của một kênh truyền hình. Đi cùng chúng tôi có Giáo
sư Tiến sĩ Jim Tucker đến từ Đại học Virginia, Hoa Kỳ. Được biết ông đã
nghiên cứu khá nhiều trường hợp luân hồi tái sinh ở trẻ nhỏ như kiểu
Cameron.
Chuyên gia nghiên cứu hiện tượng luân hồi tái sinh – Giáo sư Tiến sĩ Jim Tucker thuộc Đại học Virginia, Hoa Kỳ.
Norma nói: “Bé hỏi khuôn mặt bé có tươi sáng không, bởi
vì bé cảm thấy rất hạnh phúc. Khi chúng tôi hạ cánh trên một bãi biển
đúng như Cameron đã luôn mô tả, bé quay sang tôi và hỏi: “Bây giờ mẹ đã
tin con chưa?”. Bé nhảy xuống máy bay, tung đôi tay lên trời và la to:
“Mình đã trở về!”. Bé lại kể về người mẹ cũ của mình. Bé bảo tôi và bà
ấy sẽ yêu mến nhau lắm. Bé nóng lòng muốn chúng tôi gặp gỡ. Bé cũng nói
về một “cuốn sách to” bé từng đọc, và về Đức Giêsu. Chúng tôi không theo
tôn giáo nhưng gia đình của bé ở Barra thì có”.
Đặt chân lên vịnh Cockleshell, việc đầu tiên 3 mẹ con cùng làm là tức
tốc dò hỏi tung tích Robertson và “ngôi nhà trắng bên bờ biển”.
“Chúng tôi đã không kể gì với Cameron cả. Chúng tôi chỉ lái thẳng
xe về phía biển và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Bé Cameron ngay lập
tức nhận ra và nhảy chồm lên khi trông thấy căn nhà. Nhưng khi chúng tôi
bước về phía cánh cửa, những nét mừng vui trên khuôn mặt bé chợt tan
biến, bé trở nên trầm lặng hẳn. Bé đã nghĩ rằng người mẹ già đang chờ
đợi bé ở trong nhà. Trông bé thật buồn. Không có ai ở đó cả”.
“Theo thông tin từ cơ quan quản lý địa phương, chủ nhà trước đây
đúng là mang họ Robertson, tuy nhiên sau khi ông ấy chết thì mọi người
trong gia đình cũng bỏ đi”.
Quả thật, ngôi nhà có 3 toilet, cửa sổ phòng ngủ nhìn ra đường cất
cánh sân bay, và sau vườn thì có 1 cánh cửa bí mật gần như không ai biết
– đó là những điều trước đây Cameron luôn hào hứng kể cho tôi. Duy chỉ
có điều, mọi tung tích về gia đình người chủ cũ dường như đã bị xóa
sạch.
Trở về Glasgow, Cameron đã lấy lại bình tĩnh hơn. Bé không kể về
Barra nhiều như trước nữa, và dường như cũng an tâm hơn vì không ai còn
nghi ngờ bé bịa chuyện. “Cameron chưa bao giờ kể chuyện vì sao bé đã
rời bỏ “kiếp trước”. Nhưng có 1 lần tôi nghe bé nói chuyện với đứa bạn
“đừng sợ chết, bởi chết xong thì vẫn có cơ hội quay về”. Khi tôi hỏi:
Con đã đến với mẹ như thế nào, Cameron đã trả lời không chút ngại ngần:
Con thấy mình rơi tõm vào trong bụng mẹ thôi. Vậy kiếp trước con tên là
gì? Cameron mẹ ạ. Con vẫn là Cameron”.
(còn tiếp)
Minh Trí
(tổng hợp)
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật Giáo Việt Nam Net)