1.- TRƯỜNG HỢP
DUMINDA
HẬU THÂN CỦA MỘT VỊ SƯ TRƯỞNG HAY VEN GUNNEPARA TÁI SANH?
Tại Sri Lanka có một bé trai
tên là
Duminda. Khi sanh ra và lớn lên, cháu bé cũng giống như bao nhiêu bé
khác,
chẳng có gì đặc biệt. Nhưng đến năm ba tuổi tự nhiên Duminda biết tụng
kinh
như một chú tiểu và lạ lùng hơn nữa là bé tụng kinh theo nguyên văn
tiếng
Pali, một thứ tiếng rất khó vì thuộc về ngôn ngữ cổ xưa của Phật giáo
Ấn Độ.
Gia đình Duminda
trước đó
cũng đã có ý định muốn gởi bé vào một tu viện địa phương và họ muốn
chuẩn bị
cho con mình trở thành một chú tiểu, dần dần trở nên một nhà chân tu
sau này.
Duminda được bố mẹ
dẫn
đến thủ đô của một vùng đảo nổi danh được xem như là trung tâm tôn giáo
nổi
tiếng, nơi mà đền thờ Răng Thiêng của Phật được xây cất, địa điểm này ở
gần
với tu viện Asgirya.
Trong thời gian
còn bé,
Duminda sống với ông bà chớ không ở với cha mẹ. Ngay từ tấm bé, Duminda
thường ăn mặc rất khác người. Thường ngày bé khoác bên mình một miếng
vải
màu vàng (vắt ngang qua vai giống kiểu áo choàng của những nhà sư
thường mặc).
Cứ mỗi ngày, Duminda đến viếng nơi đền Thiêng. Nơi đây bé Duminda tụng
kinh
Pali.
Cha mẹ Duminda cho
biết,
năm lên ba tuổi, Duminda tự nhiên nói một câu như sau:
- Trước đây tôi là
một
nhà sư ở đền Asgirya.
Ông ngoại của
Duminda
cũng cho biết là thường khi đứa cháu này thúc dục mọi người trong gia
đình
hãy đến đền Asgirya để lễ bái.
Sáng nào Duminda
cũng dậy
sớm, khoát tấm vải vàng như đắp y lên mình rồi bước ra đứng trước mặt
nhà
nhìn người qua lại. Mỗi lần thấy bóng dáng một vị sư bước lên xe bus là
Duminda lại kêu to lên như nhắc nhở:
- Kìa, kìa, nhà sư
đã lên
đường rồi, tôi cũng muốn đến đền Asgirya, hãy để tôi đi!
Những gì mà các
nhà sư
thường làm như giờ trai tăng, giờ tụng kinh, giờ đọc sách, lễ Phật...
thì
Duminda đều làm đúng theo như một vị sư đã tu trì lâu ngày trong chùa
vậy.
Người mẹ Duminda thì kể rằng: Duminda rất sạch sẽ, thường căn dặn mẹ là
không nên đụng tay vào một vị sư nào vì đó là điều cấm kỵ. Ngay cả khi
người
mẹ tắm cho Duminda, chỉ múc nước xối lên người bé thôi chớ không được
kỳ cọ,
đụng tay vào da thịt bé. Duminda cũng không chơi với những trẻ con khác
vì
tự nhận mình là người lớn, luôn luôn tỏ ra đàng hoàng nghiêm túc. Bé
thường
dặn người trong nhà, hãy gọi mình là chú tiểu hay sư nhỏ cũng được hoặc
gọi
bằng hai chữ Podi Sadhu. Duminda dần dần không còn là đứa bé kỳ dị đối
với
gia đình nữa. Cha mẹ Duminda chẳng còn ngạc nhiên hay lo lắng về những
cử
chỉ, lời nói lạ lùng của bé nữa vì họ xem Duminda như có căn cơ, nghiệp
duyên tu trì từ nhỏ và chắc chắn sẽ thành vị sư tài ba sau này. Vì thế
họ dự
định gởi Duminda vào tu viện. Ở Tích Lan cũng có tục lệ gần giống với
Tây
Tạng, về vấn đề con trẻ thường được cha mẹ gởi vào tu viện, để được đào
tạo
và trở thành tu sĩ sau này.
Duminda thường
dùng cái
quạt cầm tay để che trước mặt giống như những nhà sư thường làm và ngâm
thơ
một cách thành thạo. Khi gặp các nhà sư ngoài đường hay đến nhà,
Duminda
luôn luôn nhắc đi nhắc lại rằng mình trước kia (kiếp trước) cũng là một
nhà
sư tu hành ở Asgirya. Duminda còn cho biết là tại đó có một tu viện lớn
và
mình có một phòng ở với đầy đủ đồ đạc và của cải. Ngoài ra, còn có một
chiếc
xe mô tô nữa. Duminda thường ngỏ ý muốn được đến Asgirya để thăm ngôi
đền
Thiêng và coi lại căn phòng, đồ đạc và chiếc xe của mình.
Những nhà sư đã có
lần
gặp Duminda đều có nhận xét rằng: Đây là một đứa bé có phong cách, cử
chỉ,
lời nói lạ lùng hoàn toàn khác xa với những đứa trẻ khác. Nhiều người
đề
nghị là nên đưa Duminda đến Asgirya một chuyến thử xem sao.
Chuyến đi được sắp
đặt
chu đáo. Ngày khởi hành là ngày chủ nhật, tháng 10 năm 1987. Cùng đi
với
Duminda đến Asgirua có một số nhà báo và nhà khoa học. Một nhà báo của
tờ
báo nổi tiếng Island là Oliver Silva cũng tháp tùng theo. Suốt cuộc
hành
trình, Duminda rất rành về đường xá dẫn đến tu viện chính Asgirya.
Duminda
còn nhắc lại những tập tục ở đó nhất là những phương thức, nghi lễ cầu
nguyện. Duminda nhắc lại là lúc còn là vị sư ở đó, Duminda đã được tôn
kính
và nể trọng.
Khi tới nơi, một
vị sư đã
nghe qua chuyện kể về Duminda, nên đến thăm và nêu lên câu hỏi như sau:
- Chào Duminda,
chẳng hay
Duminda có biết cây Bồ đề nơi dấu tích Linh Thiêng của Phật ở đâu
chăng?
Duminda nghe vị sư
hỏi
mình câu đó thì im lặng không trả lời, nhưng bước đi thật nhanh không
do dự,
qua một nơi với nhiều bậc cấp quanh co và đến nơi có ngôi điện nằm dưới
cây
Bồ đề.
Khi vào trong tu
viện,
Duminda tự nhiên đi qua các phòng như người đã ở đây từ lâu rồi. Đến
một
phòng khá khang trang gần tu viện, Duminda mở cửa và chỉ vào trong nói
với
mọi người:
- Đây là căn phòng
mà xưa
kia tôi đã ở.
Các nhà sư có mặt ở
tu
viện vô cùng kinh ngạc, họ không dám coi thường Duminda, họ tỏ vẻ kính
nể ra
mặt. Một vị tu sĩ mời Duminda ngồi cho đỡ mỏi nhưng Duminda vẫn đứng
yên,
chờ cho đến khi có người đem miếng khăn trắng ra phủ lên ghế mới chịu
ngồi
xuống, vì đó là tục lệ đặc biệt dành cho một vị cao Tăng.
Duminda lúc bấy
giờ mới
chững chạc, chậm rãi kể về tiền thân của mình cho mọi người nghe:
- Trước đây, tôi
là một
vị sư và đã qua đời sau một lần té ngã xuống đất. Lúc đó tôi cảm thấy
đau
tức ở ngực thật dữ dội và được chở tới bệnh viện nhưng không thể cứu
chữa
được nữa.
Khi một bức ảnh
xưa chụp
mười hai vị sư được đem ra trao cho Duminda xem thì Duminda nhìn ảnh
một hồi
lâu, rồi chỉ vào một vị sư đứng trong ảnh và nói:
- Người này chính
là tôi!
Lúc bấy giờ hai vị
sư già
và vị cao tăng trong tu viện xem lại người mà Duminda đã chỉ trong bức
hình,
thì họ đều xác nhận đó chính là vị Sư trưởng của tu viện tên là Ven
Gunnepara. Vị này đã qua đời năm 1929. Điều trùng hơp lạ lùng với những
gì
mà Duminda đã nói trước đó là vị sư trưởng này có của cải, tiền bạc và
có
một chiếc xe mô tô nữa.
Duminda còn chỉ
cho mọi
người thấy nơi mà trước đây mình đã ngủ, nơi treo các quần áo.
Trước bàn thờ
Phật,
Duminda kính cẩn quỳ xuống làm lễ và tụng kinh bằng tiếng Pali.
Có lần một người
trong
đoàn nghiên cứu hiện tượng Duminda tái sanh đã hỏi: Duminda học những
bài
kinh tiếng Pali này ở đâu? Thì Duminda trả lời như sau:
- Tôi không học ở
đâu cả.
Bác sĩ Ian
Stevenson đã
phát biểu như sau khi nghiên cứu kỹ hiện tượng lạ lùng về cậu bé
Duminda:
- Đây là một
trường hợp
ly kỳ và lý thú về hiện tượng được gọi là luân hồi tái sanh. Một hiện
tượng
cho đến nay rõ ràng khoa học chưa có thể giải thích nhưng càng ngày con
người càng gặp nhiều hiện tượng tương tợ xảy ra khắp nơi trên thế giới.
Sự kiện vừa kể
trên được
xem như trường hợp thuộc về hiện tượng hóa thân trở lại của những vị
chân tu
để hoàn tất một tâm nguyện như tiếp tục cứu độ chúng sanh chẳng hạn. Và
sự
kiện này đã trở thành thông thường nơi xứ Tây Tạng.
2.- SỰ TÁI SANH CỦA NHỮNG VỊ HÓA THÂN
Sự tái sanh luân
hồi được
hiểu đơn giản là sự đầu thai lại và người Tây Tạng tin tưởng rằng có
những
vị cao tăng, những vị sư trưởng, khi chết thường có ý nguyện được tái
sanh
trở lại để giúp đỡ chúng sanh. Các vị Bồ tát mặc dù đã thoát khỏi vòng
luân
hồi nhân quả nhưng họ vẫn muốn được đầu thai trở lại, để hoàn tất ước
nguyện
cứu độ những kẻ còn chìm đắm trong mê mờ tối tăm ở cõi thế.
Dalai Lama XIV
Danh từ Hoá thân
được
dịch từ chữ Tulkus và được hiểu như đã nói trên. Thật sự từ Hóa thân
chỉ
dùng cho những vị Bồ tát còn muốn tái sanh trở lại. Nhiều sách vở đôi
khi
còn dịch chữ Hóa thân qua từ “Reincarnation”. Từ “Reincarnation” chỉ sự
đầu
thai lại của tất cả những chúng sanh còn bị nghiệp quả luân hồi tác
động.
Trái lại từ Tulkus chỉ sự đầu thai trở lại theo ý muốn, vì người đầu
thai
này thật sự đã thoát khỏi sự ràng buộc của luân hồi. Những vị này sau
khi đã
đầu thai rồi, họ vẫn ý thức được rất rõ ràng về kiếp trước của mình và
biết
rằng mình tái sanh trở lại là để thực hiện một ý tưởng vị tha cao cả
cho
chúng sanh.
Theo các tài liệu
nghiên
cứu về Phật giáo Tây Tạng và nhất là những cuộc đời của Đức Đạt Lai Lạt
Ma
Tây Tạng mà chúng tôi may mắn đã có được một tài liệu giá trị của tác
giả
Phương Dung viết về đề tài này trên báo Hồn Việt và báo Việt Nam
(1993), thì
từ năm 1419 Tây Tạng đã có truyền thống về sự Hóa thân khi Đại sư Tsong
Khapa qua đời. Vị này đã chỉ định Gedun Truppa thay thế mình. Chính vị
sư
này đã nguyện rằng sau khi chết, sẽ tái sanh trở lại để cứu độ chúng
sanh và
hoàn tất những gì mình chưa làm xong, cũng như phát triển việc huấn
luyện
các tu sĩ phái Gelugpas thường được gọi là phái Mũ Vàng, lúc đó đang
gặp
nhiều khó khăn trở ngại.
Theo Đại sư Gedun
Truppa
thì khi hóa thân trở lại trần gian, ông sẽ đầu thai trở lại qua các vị
Đạt
Lai Lạt Ma. Để các đệ tử biết được mình sẽ hóa thân vào người nào, Đại
sư đã
chỉ rõ một vài thứ đồ dùng hàng ngày của mình và viết một bài kệ đặc
biệt.
Ngày sau cứ theo đó mà suy đoán. Sau khi Đại sư Gedun Truppa viên tịch
được
hai năm, các đệ tử đã thăm dò, theo dõi, tìm kiếm khắp nơi những gì khả
dĩ
nói lên được sự tái sanh của Đại sư.
Lúc bấy giờ ở một
vùng kế
cận thủ đô, có một bé trai mới hai tuổi, nhưng ăn nói và hiểu biết
thông
thạo như người lớn. Nghe được tin này, các đệ tử của Đại sư đã tìm đến
tiếp
xúc. Họ thấy đứa bé trả lời những câu hỏi do họ đưa ra rất trôi chảy.
Sau đó
là cuộc thử thách, họ đặt những di vật của Đại sư Gedun Truppa lẫn lộn
với
nhiều đồ vật của những vị sư khác trong tu viện trước mặt cậu bé, rồi
hỏi
như sau:
- Hãy cho biết
những thứ
nào người đã thường dùng ngày xưa?
Cậu bé nhìn tất cả
các
thứ, rồi lựa những di vật của Đại sư Gedun Truppa để riêng ra một bên
và nói:
- Đây là những thứ
tôi
thường dùng ngày trước.
Các đệ tử vô cùng
kinh
ngạc, một người nhớ lại bài kệ liền đưa cho cậu bé đọc thử. Không ngờ
vào
tuổi nhỏ như vậy mà cậu bé lại đọc được cả bài kệ và còn giải thích
luôn
những đoạn khó hiểu cho mọi người nghe.
Sau khi đã chắc
chắn đó
là vị Hóa thân của Đại sư Gedun Truppa. Các đệ tử đã rước cậu bé về tu
viện
và tôn lên làm Sư trưởng với danh hiệu là Gedun Gyatso. Tại tu viện,
cậu bé
được huấn luyện rất kỹ về giáo lý, quy luật và mọi thứ dành cho một vị
sư
trưởng sau này. Gedun Gyatso rất thông minh, học một biết mười, có lần
cậu
bé thấy nhiều người trong tu viện kinh ngạc về trí thông minh của mình,
nên
đã nói một câu như sau:
- Thế các người
không
biết ta chính là Đại sư Gedun Truppa hay sao?
Về sau, cậu bé đã
lớn lên
trong tu viện cùng với các tài năng xuất chúng của mình. Lúc bấy giờ
ông là
một Sư trưởng nổi danh về tài đức, thông suốt mọi kinh điển Phật giáo
và đã
đi rao giảng, giúp đỡ mọi người từ những làng mạc xa xôi đến những nơi
heo
hút, khiến mọi người dân ở Tây Tạng đều tôn sùng kính nể. Sư trưởng có
nhiều
ước nguyện trong vấn đề cứu độ chúng sanh. Nhưng chưa thực hiện được
bao
nhiêu thì bị bệnh bất ngờ và qua đời. Trước khi tắt hơi, vị Sư trưởng
này đã
trăn trối lại là mình sẽ tái sanh lần nữa để mong hoàn tất ý nguyện.
Lần này,
ông để lại một số di vật khác trước và một bài kệ mới, để các đệ tử
dùng
trong việc tìm ra người mà Sư trưởng sẽ đầu thai vào.
Không đầy một năm
rưỡi
sau, người ta phát hiện được ở một ngôi làng rất xa thủ đô có một cậu
bé ra
đời trong một gia đình nghèo. Bé này có những cử chỉ và lời nói rất lạ
lùng,
luôn luôn tỏ vẻ nôn nóng và yêu cầu được về đến tu viện chính để gặp
mặt một
số vị sư ở đó. Tu viện chính liền cử ba người đến ngôi làng ấy. Khi đi,
họ
đem theo các di vật của Sư trưởng cùng bài kệ. Trước lúc phái đoàn đến
nhà
một ngày, cháu bé này đã báo cho gia đình biết là: "Ngày mai sẽ có
khách quí
đến thăm, hãy chuẩn bị trà nước đón khách".
Quả nhiên ngày hôm
sau
phái đoàn tu sĩ của tu viện chính đến, cháu bé đã nhận ra một người
trong
đoàn, đó là một vị sư già thường lo việc giao tiếp giữa các ngôi chùa,
các
tu viện. Cháu bé đã hỏi thăm về tình hình ở tu viện cùng những việc mà
lúc
sanh tiền, Sư trưởng Gedun Gyatso đã biết qua. Các vị sư lại bày ra các
di
vật của Sư trưởng chen lẩn với những thứ khác vào và yêu cầu cháu bé
chọn ra
hai đồ vật mà trước đây Sư trưởng Gedun Gyatso thường dùng. Cháu bé đã
lấy
ra hai vật đúng là của vị Sư trưởng và còn chỉ vào một vật thứ ba mà
bảo
rằng:
- Vật này ta
thường dùng
hàng ngày. Nhớ giữ gìn cẩn thận kẻo sứt mẻ.
Riêng bài kệ, cháu
đọc
thông suốt và còn bảo rằng: "Bài kệ ngày xưa vẫn còn lưu trử tại tu
viện chứ?"
Cháu bé được tôn
vinh sau
đó làm vị Đại sư tên là Sonaw Gyatso. Đây là vị Đại sư tài ba lỗi lạc
còn
hơn cả vị Sư trưởng trước. Điều này được các vị Trưởng lão giải thích
rằng:
qua nhiều lần tái sanh và học hỏi, lần tái sanh sau bao giờ cũng đặc
sắc hơn
vì đây là một sự tiến hóa, trong đó có sự tiến hóa rõ ràng về kiến
thức. Hơn
nữa vì sự hóa thân, các vị này luôn luôn tu bồi thêm công quả và sự học
hỏi
của mình. Đại sư Sonaw Gyatso đã là người tạo sự giác ngộ lạ lùng cho
danh
tướng hung dữ Đại Hãn và cũng từ đó, tướng Mông Cổ này đã phong Đại sư
làm
Đạt Lai Lạt Ma và cầu mong Đại sư bảo vệ và giáo hóa cho người Mông Cổ.
Năm 1588, Đại sư
Sonaw
Gyatso qua đời, lần này vị Đại sư căn dặn các đệ tử trước khi xuôi tay
là
mình sẽ lại tái sanh một lần nữa để cứu độ người Mông Cổ. Vị Đại sư đã
để
lại một số di vật và một bài kệ ngắn để các đệ tử đối chiếu và tìm kiếm
người hóa thân.
Đến khoảng năm
1593, các
đệ tử mới tìm gặp một bé trai năm tuổi có những điều rất phù hợp với
cuộc
thử nghiệm. Đứa bé này được đưa về tu viện và phong danh hiệu là
Yonsten
Gyatso. Tưởng nên biết rằng bé trai này gốc gác là cháu nội của Đại Hãn
Mông
Cổ. Về sau, bé trai này trở thành vị Đạt Lai Lạt Ma và chính nhờ vị này
mà
nhân dân Mông Cổ trải qua được một thời đại vững bền, an cư lạc nghiệp.
Khi Yonsten
Gyatso, vị
Đạt Lai Lạt Ma thứ 4 này qua đời, các đệ tử lại theo truyền thống như
trình
bày từ trước để tìm ra người kế vị. Đó là Hóa thân của chính Yonsten
Gyatso.
Đây là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 danh hiệu là Lobsang Gyatso. Trong đời
ngài,
cung điện Potala được xây dựng cùng với nhiều tu viện và đào tạo nhiều
tu sĩ
có nhiều khả năng từ đạo đức đến học vấn. Tây Tạng nhờ đó ngày càng
phát
triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Các vị Đạt Lai Lạt Ma tuần tự nối tiếp theo
phương thức Hóa thân đã cố gắng chăm sóc nhân dân và gìn giữ đất nước
được
độc lập lâu dài trong suốt mấy trăm năm.
Nhưng rồi tai họa
lại xảy
đến cho toàn dân vì Tây Tạng nằm bên áp lực của những nước lớn như Nga
và
Trung Quốc, ngoài ra còn chịu áp lực của những nước khác nữa. Lúc bấy
giờ,
vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 của Tây Tạng là Thupten Gyatso đã tìm đủ mọi
cách
để chống đỡ đất nước, nhưng càng ngày Tây Tạng càng bị ngoại bang dòm
ngó.
Ngài biết trước thế nào đất nước ngài cũng gặp thảm họa, nhưng ngài lại
không thể sống thêm để cứu nguy dân tộc và đạo pháp. Sau khi ngài qua
đời,
Trung Quốc tung quân xâm lược, đàn áp người dân Tây Tạng và tìm cách
triệt
hạ tôn giáo.
Tục truyền rằng,
khi vị
Đạt Lai Lạt Ma Thupten Gyatso qua đời, nhục thân ngài ở vị thế ngồi
tĩnh tọa
và được ướp xác theo phương thức cổ truyền. Nhưng sau đó, các vị tu sĩ
thấy
mặt ngài đã chuyển về hướng Đông Bắc. Vị sư già nhiều kinh nghiệm đã
suy ra
rằng đức Đạt Lai Lạt Ma đã chỉ hướng, nơi mà ngài sẽ lại tái sanh. Từ
đó
cuộc tìm kiếm vị Hóa thân của ngài được tiến hành. Phái đoàn lên đường
nhằm
hướng Đông Bắc mà đi. Trên đường họ thu thập thêm các sự kiện có liên
hệ.
Một hôm, họ nghe đồn về một cháu trai độ ba tuổi rất thông minh và
thường
nhắc đến các vị sư cũng như thích kinh điển. Phái đoàn đến ngôi nhà đó.
Đây
là một ngôi nhà xây bằng đất, tọa lạc bên một cây cổ thụ xum xuê. Khi
phái
đoàn bước vào thì gặp cháu bé. Cháu bé rất vui mừng khi thấy các nhà sư
vào
nhà mình nên chạy vội đến và ngồi lên đùi một vị Trưởng lão hòa thượng,
vì
vị này có đeo một chuỗi hạt rất đẹp. Vị sư hỏi:
- Tên người là gì?
Cháu bé đáp:
- Tôi là Lhamo.
Vị sư lại chỉ một
nhà sư
đứng bên cạnh và hỏi:
- Đây là ai?
Cháu bé đáp:
- Đây là Lạt Ma
Scra.
Phái đoàn đã biết
được
phần nào kết quả khi trắc nghiệm cháu bé Lhamo, nhưng họ còn phải tìm
hiểu
thêm nữa trước khi quyết định tháp tùng Lhamo về tu viện. Lần sau, họ
đưa ra
một số xâu chuỗi khác nhau và yêu cầu Lhamo phân biệt thử xâu chuỗi nào
là
của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 thường dùng. Lhamo liền bước đến dùng tay
gạt
những xâu chuỗi không đúng của đức Đạt Lai Lạt Ma ra và chỉ giữ lại xâu
chuỗi của ngài đã dùng trước đây. Các vị tu sĩ đều kinh ngạc vì quả
thật xâu
chuỗi đó chính là xâu chuỗi của đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13. Các cuộc
trắc
nghiệm kế tiếp đều được Lhamo làm đúng hoàn toàn. Do đó, phái đoàn
quyết
định đưa Lhamo về kinh đô. Mặc dù đường sá khó khăn, lại thêm quân đội
Trung
Cộng gây cản trở, nhưng cuối cùng phái đoàn cũng đưa được Lhamo về cung
điện
Potala. Đến lúc gần năm tuổi, bé Lhamo chính thức được tôn vinh là đức
Đạt
Lai Lạt Ma đời thứ 14. Trong suốt 20 năm, vị Phật sống này phải được
huấn
luyện kỹ càng về mọi mặt. Tuy nhỏ tuổi nhưng ngài phải qua nhiều cuộc
thử
thách cam go về giờ giấc, học hành và nhất là thực hành các pháp môn và
giáo
lý Phật giáo... trong khi đó tình hình chính trị không yên, Trung Quốc
tìm
đủ cách để gây hấn. Vì thế năm 1959, đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phải
trong
đêm khuya trốn khỏi điện Potala để vượt biên giới đến lánh nạn ở Ấn Độ.
Karmapa XVII
Trên đây là những
giai
đoạn Hóa thân của những đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng. Thật sự thì việc
hóa
thân được xem như khởi đầu từ Đại sư Gedun Truppa trở đi.
Khi một vị Đạt Lai
Lạt Ma
qua đời, vị này thường có ước nguyện hóa thân để được tái sanh trở lại.
Việc
đi tìm cho đúng ai là người hóa thân của những vị này là cả một vấn đề
rất
khó khăn. Đôi khi phải mất ba, bốn năm hay hơn mới tìm ra được vị Hóa
thân.
Vì thế, mỗi khi một vị lãnh đạo cao cấp của Tây Tạng qua đời thì họ sẽ
đầu
thai trở lại.
Mới đây, các vị sư
Tây
Tạng trú tại Ấn đã lưu ý đến trường hợp một cậu bé năm tuổi tên là
Simon Heh,
cậu này có lời nói và cử chỉ rất lạ lùng. Khi gặp tu sĩ Geshe Lobsang
Tsepel,
62 tuổi (Viện trưởng của Trung Tâm Phật giáo Tây Tạng ở San Diego), cậu
bé
đã bước tới nói một câu rất tự nhiên:
- À! Tôi biết ông,
nhưng
có lẽ ông không nhận ra tôi? Chính tôi là người mà ông thường kề cận.
Lúc đầu tu sĩ
Geshe
Lobsang Tsepel cứ tưởng cậu bé tập nói theo kiểu người lớn, nhưng khi
ông
này cúi xuống nhìn vào mắt cậu bé và hỏi lại một câu rằng: "Vừa rồi
Simon đã
nói gì?" Thì bé vẫn trả lời: "Tôi biết ông!" vừa nói, Simon vừa đưa tay
mân
mê chiếc càm của tu sĩ Geshe tỏ vẻ thân mật vô cùng.
Vị tu sĩ này sau
đó trở
lại hỏi người trong gia đình này về trường hợp của bé Simon thì được
cha mẹ
Simon cho biết thêm chi tiết như sau:
- Bé Simon rất
khác
thường nếu so sánh với các trẻ con khác. Suốt ngày Simon chỉ ngắm trời
mây,
đi dạo trong nhà hay trong sân. Ít thích chơi đùa nghịch ngợm. Thường
tư lự
như một người đứng tuổi. Mới đây Simon lại có các biểu hiệu lạ lùng như
tự
nhiên nói những lời tiên tri. Có lần Simon khuyến cáo trong nhà không
nên
nghe lời người hàng xóm để đi xa vì sự thật nơi đó chẳng có gì. Lần
khác
Simon bảo người cha nên ở nhà trong một ngày mà Simon bảo ngày ấy là
ngày
xấu cho ông. Quả nhiên hôm đó, chỗ ông định tới lại bị lụt lớn gãy cầu,
nếu
ông đi thì sẽ bị kẹt lại đó một thời gian.
Cậu bé Simon sanh
tại Nam
California Hoa Kỳ và đã tình cờ gặp tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel, khi vị
này
đến thăm Victoville thuộc vùng sa mạc Nam Cali. Sau khi thấy ở bé Simon
những biểu hiệu lạ lùng, vị tu sĩ này trở về và hôm sau nằm mộng thấy
vị
thầy của mình thuở trước. Đó là Lạt Ma Lobsang Phakpa, người đã viên
tịch
tại Trung Quốc vào đầu thập niên 1950. Trong giấc mơ, vị Lạt Ma này như
có
điều gì nhắn gởi với tu sĩ Geshe Lobsang Tsepel. Khi vị tu sĩ giật mình
thức
dậy, ông tự nhiên có ý nghĩ rằng có lẽ bé Simon là Hóa thân của Lạt Ma
Lobsang Phakpa chăng? Vì ngày xưa tu sĩ Geshe Lobsang thường sống gần
gũi
bên vị Lạt Ma này và vị này mỗi khi nói điều gì cũng thường hay lấy tay
sờ
hay ấn vào cằm tu sĩ Geshe Lobsang giống như bé Simon đã làm. Sau đó,
vị tu
sĩ này đã viết một bức thư đầy đủ chi tiết gởi về Ấn Độ để thỉnh ý quý
vị
lãnh đạo tu viện cũ có liên hệ với Lạt Ma Lobsang Phakpa.
Sau một thời gian
tìm
hiểu, trắc nghiệm, quý vị trong ban lãnh đạo tu viện đã quyết định gởi
bé
Simon qua Ấn Độ để tìm hiểu thêm và nếu quả thật thì bé Simon sẽ được
giáo
dục theo phương pháp và chương trình giáo dục của Tây Tạng.
Chúng ta cần biết
thêm là
trước đó vài năm, tại Tây Ban Nha người ta cũng phát hiện một cháu bé
được
nghi ngờ là một Hóa thân của một vị Lạt Ma. Và năm 1992 người ta cũng
phát
hiện được một bé trai có cử chỉ và lời nói hoàn toàn giống đức Phó Tăng
Thống Tây Tạng. Sau đó đức Đạt Lai Lạt Ma đã đồng ý gởi bé qua Ấn Độ
tìm
hiểu thêm, đó có phải là một Hóa thân của vị Tăng Thống ấy không.
(Trích
từ
cuốn: Tiền kiếp và Hậu kiếp của tác giả Đoàn Văn Thông,
Nhà xuất bản: Nguồn Sống, 1993).