Linh hồn sẽ tồn tại sau khi chết có hay không ? Sau đây bài viết “Linh
Hồn và Cõi Âm” của GS TS Bùi Duy Tâm (sống tại Francisco, CA 94122,
USA). Từ chỗ chưa có cơ sở để tin cậy vào sự tồn tại vong linh của con
người, GS Tâm đã kiên trì tìm hiểu vấn đề tâm linh và cuối cùng đã rút
ra kết luận chắc chắn rằng : sự sống sau cái chết là có thực !
Nguồn: http://phatgiaovnn.com (Phật
Giáo Việt Nam Net)
Người ta đã sinh ra thì tất sẽ chết.
Nên
mọi người đều rất quan tâm và đa số sợ chết. Do đó sinh ra các triết
nhân và triết thuyết về cái chết, các thánh nhân và tôn giáo về thiên
đắng, địa ngục, các mê tín dị đoan về ma quỷ.
Chúng tôi cũng như mọi người thường suy
nghĩ về Cái chết, về Linh hồn, về Cõi đời sau khi chết, nhưng hơi nhiều
hơn mọi người.
Tôi, Bùi Duy Tâm, sinh ra trong một gia
đình ba đời theo Đạo Thiên Chúa, đã đọc Thánh Kinh (Cựu Ước và Tân Ước)
ba lần, đi nhà thờ rất đều mỗi sáng chủ nhật cho đến năm 30 tuổi. Sau
này làm bạn tâm giao với cố Linh mục Bửu Dưỡng và Hoà thượng Thích Mãn
Giác, nên tôi có điều kiện đàm luận về Thiên Chúa Giáo và Phật Giáo.
Tôi đã hiểu được cái tinh tuý của
Lý Dịch và Đạo Nho với cố Bác sĩ Nguyễn Văn Ba. Tôi đã đọc rất kỹ các
cuốn Tử Thư của Ai Cập và Tây Tạng cũng như nhiều sách khác cùng loại.
Tôi đã sang Ai Cập, Ấn Độ, Tây Tạng … để tìm hiểu thêm về Huyền Bí Học
và Siêu Hình Học. Nhưng tất cả đều mù mờ về “Linh hồn” và “Cõi đời sau
khi chết”. Không có đủ chứng cứ cụ thể có thể thuyết phục tôi. Tôi không
chấp nhận các giáo điều của chính trị và tôn giáo. Tôi không yên tâm
với tín ngưỡng ngày chán và các loại sách viết Huyên Thuyên xích đế
chẳng có gì cụ thể.
Tôi trở thành một người theo phái bất
khả tri : “Con người nhận biết thế giới và vũ trụ với khả năng rất giới
hạn nên không thể biết được sự tuyệt đối về Thượng Đế, Linh hồn và Cõi
đời sau khi chết”.
Và như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sự
hiện hữu của Linh hồn và Cõi Âm của tôi chưa đi đến đâu cả, chưa thấy
một sự kiện gì đủ thực tế để bầu víu.
Đầu thế kỷ 21, tình cờ cầm tờ Y Tế
Nguyệt San số 5, tháng 5 năm 2001 của Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ và
đọc bài viết “Thế giới vô hình và việc tìm kiếm mồ mả ở Việt Nam” của
Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên (nguyên Phó thủ tướng đặc trách Văn hoá, Giáo
dục, Y tế, Xã hội thời VNCH).
Trong bài báo, Bác sĩ Viên tả lại việc
tìm mộ gia đình của Kỹ sư Trần Lưu Cung (nguyên Tổng giám đốc Giáo dục
kỹ thuật và Thứ trưởng Đại học thời VNCH) làm hướng dẫn của các nhà
ngoại cảm (ông Ngà, cậu Liên, cậu Nguyện …). Các nhà ngoại cảm tìm mộ
đều nói chính vong linh của người quá cố đã chỉ cho họ những chi tiết để
hướng dẫn tìm mộ gia đình. Đặc biệt trong bài báo, Bác sĩ Viên còn đề
cập đến bài tự thuật “Tôi đi gặp người thân đã mất (vong) tại nhà cô
Phương ở Bắc cầu Hàm Rồng tỉnh Thanh Hoá”, của Trung tướng Nguyễn Hùng
Phong, nguyên Phó tư lệnh chính trị và Bí thư Đảng uỷ Quân khu 1.
Ông Phong đã tường thuật lại việc
ngày 16-12-1999 đến nhờ cô Phương giúp cho được gặp lại vong linh của vợ
là bà Vũ Thị Hạnh, nguyên Trưởng phòng Giáo dục quận Hoàn Kiếm, Hà Nội,
đã mất đột ngột tại nơi làm việc tháng 3 năm 1999 do bệnh tim…
Sau khi đọc xong bài báo, tôi mừng quá,
liền gọi điện thoại ngay cho ông Trần Lưu Cung. Ông Cung xác nhận sự kỳ
diệu của việc tìm mộ và còn gửi cho tôi xấp tài liệu riêng của gia đình
kèm theo rất nhiều hình ảnh.
Như vậy là đề tài “Linh hồn và Cõi âm”
đã có cơ hội hé mở sau bao thất vọng. Còn đợi gì nữa mà không về Việt
Nam, đến cầu Hàm Rồng để tìm gặp cô Phương cho ra nh ẻ ?
oOo
Tháng 10 năm 2003 tôi về Hà Nội để làm
lễ Cửu Tuần Đại Thọ cho mẹ tôi. Tới Hà Nội đêm hôm trước, thì sáng sớm
hôm sau tôi lên đường đi Thanh Hoá để gặp cô Phương. Tôi mời mẹ tôi cùng
đi Sầm Sơn để ôn lại các kỷ niệm xưa. Trên đường đi Thanh Hoá, tôi ghé
vào em Bùi Duy Tuấn nhằm cầu xin cha tôi (mất năm 1990 tại Sài Gòn) về
điện cô Phương, cầu Hàm Rồng để các con và mẹ được gặp cha. Chúng tôi
không dám nói với mẹ mục đích của chuyến đi vì mẹ tôi sùng Đạo Chúa (Tin
Lành), không chấp nhận những chuyện “ma quỷ” như vậy.
Khi đến nơi, hai anh em tôi thấy
quang cảnh đúng như trong bài báo của Bác sĩ Nguyễn Lưu Viên : Khoảng
30-40 người ngồi im lặng, nghiêm chỉnh, có vẻ lo âu chờ đợi trước một
cánh cửa đóng kín. Một người đàn bà (sau này tôi biết là chị chồng cô
Phương) dáng mập ngồi chắn trước cửa, thỉnh thoảng hô lên “Nhà ai có
vong tên … thì vào”. Thế là vài ba người hay dăm bảy người mừng rỡ hấp
tập đi vào…
Chúng tôi mời mẹ vào ăn sáng tại một nhà
nghỉ khá lớn ở ngay trước điện cô Phương (nhà nghỉ này của nhà chồng cô
Phương tiếp khách ở xa đến phải chờ đợi vong nhà mình có khi tới ba
ngày, cả tuần lễ hay đôi khi thiếu may mắn không gặp được vong, đành
phải ra về tay không). Hai anh em tôi lén đi thắp nhang trước điện để
cầu khẩn cha tôi về theo thủ tục như mọi người. Thỉnh thoảng cửa hé mở
để dăm ba người đi ra. Người thì tỏ ra hớn hở. Người thì nước mắt sụt
Sùi.
Tôi sốt ruột đi hỏi xem có phải đăng ký
hay làm thủ tục gì nữa không, thì mọi người đều xác nhận không phải làm
gì cả, mà cứ kiên nhẫn ngồi chờ. Khi vong nhà mình về thì người ta gọi
vào.
Tôi thắc mắc là tôi chưa khai tên của
cha tôi thì ai biết mà gọi. Mọi người cười, chế nhào tôi là hỏi thật ngớ
ngẩn !
Chúng tôi chờ từ 10 giờ sáng đến ba giờ
chiều thì người đàn bà ngồi trước cửa đứng lên nói to : “Cô Phương nghỉ
làm. Xin mời quý vị ngày mai trở lại”. Thế là anh em tôi ngao ngan cùng
với vài ba chức người đứng dậy ra về.
Chúng tôi đưa mẹ ra Sầm Sơn nghỉ ngơi và
thăm lại cảnh xưa chốn cũ. Thật cảm động khi trở về nơi mà tôi đã sống
những ngày thơ ấu cách đây hơn nửa thế kỷ (gần 60 năm).
Sáng hôm sau chúng tôi trở lại điện
cô Phương. Lần này chúng tôi phải thú thật với mẹ chuyện hai anh em
đang làm. Mẹ tôi giãy n ảy lên : “Đến chỗ ma quỷ ! Tao không vào đâu !”.
Chúng tôi lại đành phải mời mẹ ngồi ăn sáng ở nhà nghỉ như ngày hôm
trước.
Lần này tôi sốt ruột lắm rồi. Tôi đi ra
đi vào, hỏi chuyện người này người nọ. Tôi gặp bố mẹ chồng cô Phương.
Ông Nghinh (bố chồng) mời tôi uống nước, đang kể chuyện cô Phương thì
bỗng nghe có tiếng gọi : “Bà Tỉnh đâu, người nhà ông Tỉnh đâu ?” (Cha
tôi tên là Bùi Văn Tĩnh, nhưng vì nói giọng Thanh Hoá nên nghe gọi tên
là Tỉnh). Phải gọi đến vài ba lần thì anh em tôi mới biết là gọi mình.
Tôi chạy tới cánh cửa. Em Tuấn chạy ra hối hả gọi mẹ : “Mo ơi, Cậu về
gọi mo đấy !”. Mẹ tôi hốt hoảng em tôi đứng bật dậy chạy theo, quên mất
lập trường chống ma quỷ của mình.
Qua cánh cửa, chúng tôi bước vào một căn
phòng khá rộng rải, trống rỗng. Ngoài cái được trên tường để trái cây
và các phong bì (chắc là tiền thưởng), thì không hay có bàn thờ trang
trí gì khác của một cái am, cái điện. Cô Phương ăn mặc diêm dua như các
cô gái Hà Nội, mặt hoa da phấn, đang ngồi tỉnh táo trên chiếu cùng với
một gia đình đông người trên chức. Cô cất tiếng: “Gọi mãi mà các bác
không vào, nên vong nhà khác tranh vào trước. Thôi, các bác vui lòng
ngồi chờ nhé! “.
Thế cũng tốt, chúng tôi có dịp được
quan sát thêm. Cô Phương gọi tên hết người này đến người nọ trong gia
đình ngồi chung quanh cô. Khi gọi trúng tên ai thưa thì giơ tay : “Dạ,
con đây (đây em hay, cháu đây …)”. Và người đó nói chuyện với vong (qua
miệng cô Phương). Tôi nghe thấy đa số trả lời : “Dạ, đúng vậy …” có vẻ
cung kính lắm.
Có một chuyện cười ra nước mắt. Vong gọi
: “Thằng Thanh đâu ?”. Một thanh niên chừng 25 tuổi đứng bật dậy : “Dạ,
con đây !”. Vong nói : “Mày không biết thương vợ con. Mày tằng tiu với
con Mai ở cùng cơ quan”. Chàng thanh niên sợ hãi líu ríu nhận tội. Người
phụ nữ ngồi cạnh (chắc là vợ) oà lên khóc nức nở. Sau gần một giờ, gia
đình đó mới kéo nhau ra.
Bỗng cô Phương nhìn chấm chấm vào mẹ tôi
để rồi kêu lên : “Mo ơi! Côn Cửa mở đây ! Thắng đây ! (Thắng là đứa em
út của chúng tôi, mất lúc chưa đầy một tuổi.) Mẹ tôi vừa xúc động vừa
ngạc nhiên: “Trời ơi ! Con tôi … Nhưng con mất khi mới được tám tháng… …
“.
Vong nói qua miệng cô Phương : “Bây giờ
con lớn rồi. Hôm qua con biết Mo và hai anh đến, nhưng con phải đi mời
Cậu. Cậu không chịu về. Con phải nói : Mo già yếu, còn anh Tâm ở xa về
nên Cậu mới chịu. Cậu và Ông Nội cũng về với con đây “.
Rồi quay sang phía hai anh em tôi, cô
Phương nói : “Hai anh chẳng nhớ gì đến em. Hai anh chỉ nhớ Cậu thôi !”.
Đúng vậy! Chúng tôi đâu có nghĩ đến thằng em út đã mất từ lúc tám tháng.
Thật bất ngờ cho chúng tôi.
Quay trở lại mẹ tôi, cô Phương nói :
“Con thích tên là Bùi Duy Thắng như các anh con là Bùi Duy Tâm, Bùi Duy
Tuấn. Mo sao lại đặt tên con là Bùi Tất Thắng ? “.
Mẹ tôi luống cuống : “Tại bố con
đấy ! Hồi đó mới giải phóng Hà Nội sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nên bố
con cao hứng, đã đặt tên con là Tất Thắng “. (Hồi đó cả nhà trách bố
tôi vì đặt tên thằng út là Tất Thắng Tất còn có nghĩa là hết, tức là
chết. Nên nó mới mất sớm.. Nhân tiện tôi nói thêm là việc đặt tên rất
quan trọng, còn quan trọng như thế nào thì tôi không biết Nhưng tôi. có
biết ông Đỗ Trí ở Sơn Tây có tài chỉ cần đọc tên là ông ấy biết con
người như thế nào, như xem chỉ tay hay số tử vi vậy.)
Vong em tôi nói tiếp qua cô Phương :
“Thôi, Mo đã khắc tên trên bia mộ con rồi !”. Đúng thế. Tên em tôi đã
được khắc trên bia mộ, nằm cạnh ông bà ngoại tôi trong nghĩa trang Bất
Bát.
Đến lượt bố tôi vào. Vong bố tôi qua
thân xác cô Phương nắm tay mẹ tôi, rồi nói : “Hơn mười năm rồi mới gặp
lại bà. Tôi nhớ bà lắm … “. Mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi cũng khóc. Bố
tôi bỗng trách đùa mẹ tôi : “Bà diện lắm ! Mới đi có thể mà áo đỏ… “.
Trời ơi ! Sao bố tôi biết nhanh thế ?
Trong gia đình đã có ai biết chuyện tôi mua xấp vải nhung đỏ về VN may
áo cho mẹ tôi !? Tôi mới về Hà Nội tối hôm trước thì sáng hôm sau trên
đường đi Thanh Hóa ghé qua tiệm may, bỏ xấp vải nhung đỏ này để có áo
cho mẹ kịp mặc vào Lễ Đại Thọ. Mẹ tôi đương líu ríu chống chế thì bố tôi
bồi thêm một câu đùa yêu tiếp : “Bà còn muốn tô son đánh phấn nữa!”.
Mẹ tôi rên rỉ : “Cái gì ông cũng biết !
Đúng rồi ! Tôi vừa xin con cháu Trinh Hương, con gái anh Minh, một chút
son phấn để hôm Lễ Đại Thọ thoa một chút. Mặt mũi nhăn nheo quá, sợ
thằng con trai cả của ông nói với bạn bè “. (Chuyện này mẹ tôi giấu kín
mọi người, trong khi anh em tôi không hay biết gì, thế mà bố tôi cũng
biết !) “
Rồi cô Phương quay sang tôi : “Tâm
ơi! Cậu buồn quá vì chuyện con Hà nhà con. Nó lôi thôi với chồng nó thì
chỉ khổ cho ba đứa con thôi”. (Hà là con gái tôi) Chuyện của nó mới xảy
ra trước khi tôi về Hà Nội. Vợ chồng tôi nghe phong phanh, nhưng chưa có
dịp trao đổi với nhau. Thế mà mọi chuyện người Âm đều biết, không giấu
giếm được ! )
Một lúc sau thì ông nội tôi về. Qua
miệng cô Phương : “Tao là Bùi Văn Khánh, ông nội đây. Cả bà nội Nguyễn
Thị Ngọt cũng về đây! “.
Tôi vội thưa : “Thưa Ông, con nghe anh
Đại con cô Hai nói tên Ông là Khánh, nhưng lâu ngày trên giấy khai sinh
của Bố con mất dần dấu sắc, nên đọc là Khanh” (cô Hai là chị ruột bố
tôi. )
Ông nội tôi gắt lên: “Tên tao là Khánh,
chứ không phải là Khanh”.
Rồi quay sang mạng mẹ tôi : “Chị về làm
dâu nhà tôi mà không đoái hoài mồ mả tổ tiên nhà chồng. Từ ngày cưới
chị, chị chỉ về quê nội có một lần ! Mẹ tôi sợ hãi chống chế : “Gia đình
con ở Hà Nội, Hải Phòng. Quê nội ở mãi Bái Đô, Lam Kinh – Thanh Hoá,
nên đi lại khó khăn. Và, con sinh con đẻ cái đều đều ba năm hai đứa nên
không về thăm quê được. Con xin nhận tội với ông bà “.
Cứ như thế trong 90 phút vui buồn, khóc
lóc …
Hai anh em tôi và mẹ hớn hở ra về.
Có lẽ vì cao hứng nên chúng tôi ghé thăm nhà thơ Hữu Loan, người bạn cũ ở
Thanh Hoá. Đáng nhẽ thẳng về Hà Nội, nhưng chắc còn luyến tiếc những
giờ phút quý bầu xúc động buổi sáng đó nên chúng tôi quay trở ngược lại
cầu Hàm Rồng để chụp ảnh với cô Phương. Kỳ này mẹ tôi không phản đối nữa
mà còn hăm hở muốn gặp cô Phương.
Cô Phương vui vẻ cho biết thêm : “Cụ ông
lại vừa về cho biết đã đăng ký chỗ dạy học cho bà rồi”.
Lại thêm một ngạc nhiên : Mẹ tôi vốn là
một giáo viên hồi hưu. Ngày xưa, mẹ tôi là người đàn bà Tây học. Khi lấy
chồng, sinh con thì ở nhà. Khi các con khôn lớn thì bà mới đi dạy lại
vì sự khuyến khích của bố tôi. Thôi, không còn nghi ngờ gì nữa. Đúng là
vong linh của bố tôi rồi! Lúc nào tôi cũng muốn bố mẹ tôi sử dụng cái
tri thức của mình.
Ngày hôm đó là ngày trọng đại của đời
tôi. Tôi thấy cụ thể sự hiện hữu của Linh hồn và cõi Âm. Dù cho sau này
cô Phương có nói bậy gì đi nữa, các cô gọi hồn khác, các nhà ngoại cảm
khác đôi khi có nói bậy vì mưu sinh thì kết quả của ngày hôm đó vẫn
không thể chơi cai được, nếu không nói là tuyệt đối được chấp nhận.
Khác nào như ta cố gắng gọi điện thoại
cho người thân, đường dây rất khó khăn, rất xấu, nhưng chỉ một lần thôi
ta nghe rõ tiếng người thân trò chuyện với ta về những chuyện gia đình
mà người ngoài không thể biết được, thì cũng khá đủ cho ta biết rằng
người thân của ta vẫn tồn tại. Tuy ta không nhìn thấy được vì giới hạn
của ngũ quan, nhưng người thân quá cố của ta vẫn tồn tại với các ký ức,
với các kỷ niệm dưới một dạng nào đó mà ta biết không, ta tạm gọi là
“Linh hồn” , trong một thế giới nào đó mà ta cũng biết không, tạm gọi là
“cõi âm” (để phân biệt với cõi Dương mà ta đang sống) hay theo kiểu Tây
Phương gọi là “Cuộc đời sau khi chết” (“Cuộc sống sau deth “).
Sau này mỗi lần về thăm quê hương,
tôi đều đưa mẹ tới gặp cô Phương. Lần sau cùng mẹ tôi gặp cô ấy là cuối
năm 2005. Khi đó mẹ tôi vẫn còn khoẻ mạnh, nhanh nhẹn. Trước khi ra về,
cô Phương nói nhỏ với tôi : “Cụ ông nhớ bà lắm. Cụ ông sắp đưa bà về rồi
một cách bình yên”. Ít lâu sau, mẹ tôi mất rất nhanh.
Sau này tôi có gặp nhiều nhà ngoại cảm
khác ở Việt Nam, họ cũng có khả năng như cô Phương – cô Bằng, cô Thảo,
cô Mến trên đường từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng. Tôi cũng đã gặp
các nhà ngoại cảm tìm mộ như Cậu Liên, anh Nguyễn Khắc Bảy, cô Phan Thị
Bích Hằng … Tôi cũng đã gặp các nhà khoa học nghiên cứu về tâm linh như
TS Nguyễn Chu Phác, GS Ngô Đạt Tam, GS Phi Phi, TS Ngô Kiều Oanh … làm
việc ở các cơ quan khác nhau.
Tôi đã được đọc câu kết luận của một tài
liệu ở Việt Nam (không phổ biến công khai) như sau : “Thế giới tâm linh
là có thật. Đó là một thực tế khách quan cần được các nhà khoa học
nghiên cứu nghiêm túc. Chúng ta hãy bình tĩnh, khách quan lắng nghe
những lời nhắn như từ thế giới tâm linh để có cuộc sống nhân ái hơn,
lương thiện hơn “.