Người ta gọi đó là một cuộc cách mạng khoa học, bởi vì nhờ đó mà
Tây phương thoát ra khỏi cảnh tăm tối đã kéo dài gần 1000 năm, từ năm 476 tới
năm 1473. Thời gian này thường được gọi là thời Trung Cổ và cũng còn được gọi
là thời kỳ tăm tối hay thời kỳ hắc ám (Dark Ages). Chính trong khoảng thời gian
này, Tây phương đã bị thống trị bởi một ý thức hệ tôn giáo độc tôn. Những giáo
điều, tín lý Thiên Chúa Giáo, tôn giáo của Tây phương, cộng với quyền hành của
các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền, hay liên kết với những chính quyền
đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa học và tự do tư tưởng của con người.
Mọi khám phá khoa học, mọi tư tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là
“lạc đạo" (heretics), phải diệt trừ. Do đó, cũng chính trong khoảng thời
gian này, Tây phương phải chịu đựng 8 cuộc Thập Ác Chinh (Crusades) và hàng
trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả là nhiều triệu người
gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì, hoặc bị tàn sát, có khi tập thể;
hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại
(hơn 40 dụng cụ tra tấn dã man này hiện được trưng bầy trong 1 bảo tàng viện nhỏ
tên là Medieval Dungeon trên đường Jefferson, khu Fisherman Warf, tại San
Francisco); hoặc bị treo cổ, hoặc bị đốt sống, v.v..., tất cả chỉ vì họ không
chấp nhận hay có những tư tưởng ngược với Thánh Kinh. Thánh chiến và tòa án xử
dị giáo là những sản phẩm đặc thù của Thiên Chúa Giáo ở Âu Châu, vì người ta
không thể tìm thấy những thứ này trong lịch sử của bất cứ tôn giáo nào ở Đông
phương, nhất là Phật Giáo. Đó là những vết tỳ ố không sao tẩy xóa được trong lịch
sử loài người, dù Giáo hội Thiên Chúa giáo đã làm hết sức để quảng cáo cái bộ mặt
giả nhân giả nghĩa ngụy trang dưới những chiêu bài như nhân quyền, từ thiện,
v.v.. với hy vọng làm cho thế giới ngày nay quên đi cái lịch sử tàn bạo của
Giáo hội, đẫm máu và nước mắt của hàng triệu người vô tội.
Cuộc cách mạng
khoa học đã gây nên hai ảnh hưởng to lớn: Trong giới khoa học, đó là khởi điểm
của các tiến bộ khoa học hiện đại, vì từ đó các khoa học gia đã thoát ra khỏi sự
thống trị tư tưởng của tôn giáo; trong xã hội đại chúng, đó là khởi điểm của sự
đạp đổ nền độc tài tôn giáo và những giáo điều lỗi thời, vì những khám phá khoa
học mới đã có tác dụng mở mang dân trí, chấm dứt 1000 năm tăm tối, giải phóng
con người khỏi sự chuyên chế độc tài của giới giáo sĩ, điển hình là cuộc cách mạng
năm 1789 tại Pháp mà kết quả là tước bỏ quyền hành của giới lãnh đạo Thiên Chúa
giáo trong quần chúng, hay nói theo John E. Remsburg trong cuốn False Claims:
“tước khỏi những bàn tay đẫm máu của Giáo hội Thiên Chúa giáo những thanh gươm
để giết người, và những bó củi để thiêu sống người”. Để có một nhận định
khách quan và trung thực về vấn đề trên, có lẽ chúng ta nên duyệt sơ sự diễn tiến
của cuộc cách mạng khoa học, một cuộc cách mạng vô tiền khoáng hậu trong lịch sử
Tây phương, được viết trong các sách giáo khoa mà bất cứ sinh viên đại học nào
học về khoa học cũng phải biết.
Trong thời Trung Cổ, tuy cũng có những tiến bộ về khoa học và toán học,
nhưng về nhân chủng học và vũ trụ học, tất cả đều dựa trên Cựu Ước trong Thánh
Kinh, một cuốn sách viết bởi nhiều môn phái trong nhiều thế kỷ. Ngoài ra, Tân Ước
cũng được viết bởi nhiều người trong nhiều thế kỷ sau khi Giê-su bị đóng đinh
trên cái giá gỗ hình chữ thập. Tuy ngày nay, nhiều học giả nghiên cứu Thánh
Kinh, và ngay cả những tín đồ Thiên Chúa giáo tiến bộ, có đầu óc suy luận và kiến
thức về khoa học, đều công nhận là cuốn Thánh Kinh chứa đầy những huyền thoại
góp nhặt từ các huyền thoại dân gian, đầy những sai lầm và mâu thuẫn, những tư
tưởng dã man của thời bán khai với những cảnh giết chóc, tàn sát tập thể, loạn
luân, v.v. và hoàn toàn trái nghịch với những khám phá mới nhất đã được kiểm chứng
của khoa học, nhưng vào thời Trung Cổ, cuốn Thánh Kinh đã được giới lãnh đạo
Thiên Chúa giáo coi như chính là những lời của Thần của họ, do đó không thể sai
lầm. Theo sự đoan quyết của các nhà thần học Thiên Chúa giáo, dựa trên Thánh
Kinh, thì thế giới mà chúng ta đang sống là thế giới duy nhất do một vị thần mà
họ gọi là Thượng Đế tạo ra, và trái đất là trung tâm của thế giới này. Mặt trời
và các hành tinh khác đều do các thiên thần xoay vần xung quanh trái đất. Trên
trái đất là một vòm trời cứng để giữ nước ở phía trên, có những cánh cửa mở để
nước rơi xuống thành mưa theo hứng của Thượng Đế. Những sao trên trời là những
ngọn đèn mà tối tối Thượng Đế sai các thiên thần mang ra treo. Vì đó là những lời
của Thượng Đế
trong Thánh Kinh nên bất cứ quan niệm nào không phù hợp với Thánh kinh đều bị
coi là "tà thuyết" và, theo Thánh Philastre, đương nhiên "sai lầm
đối với tín ngưỡng Thiên Chúa giáo" (Any other view, St. Philastrius
declared "false to the Catholic faith" ("Science and
Theology" by Andrew Dickson White).
Nhưng vào đầu thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, một nhà vũ trụ học
người Ba Lan, đã đưa ra một khám phá mới: đó là, không phải là mặt trời và các
hành tinh quay xung quanh trái đất, mà chính là trái đất và các hành tinh quay
xung quanh mặt trời. Copernicus không dám phổ biến khám phá này như là một sự
thực khoa học. Nhưng cuối cùng ông cũng xuất bản một cuốn sách: "Chuyển động
quay của các thiên thể" (Revolutions of the Heavenly Bodies) trong đó có
ghi những khám phá của ông. Để tránh cho Copernius những hậu quả khó có thể
lường trước được, trong phần đề Tựa cuốn sách, bạn của Copernicus là Osiander
đã khéo léo trình bày công trình khảo cứu của Copernicus như là một giả thuyết
(hypothesis) hay là một nghịch lý (paradox). Nhưng, khi cuốn sách vừa được xuất
bản thì Copernicus qua đời, vào năm 1543. Do đó Tòa Thánh cũng làm ngơ và
cho phép các nhà thần học thỉnh thoảng được bàn tới "giả thuyết" của
Copernicus. Sự chống đối trong giới khoa học tuy có nhưng chỉ ngấm ngầm, không
ai dám lên tiếng coi thuyết của Copernicus là một chân lý, vì sợ bị kết án là lạc
đạo, tra tấn và mang ra xử tại tòa án xử dị giáo.
Tuy nhiên, có một triết gia thuộc loại "uy vũ bất năng khuất",
đó là Giordano Bruno, một linh mục dòng Dominique người Ý. Bruno không những đồng
ý với Copernicus mà còn táo bạo hơn, đưa ra quan niệm là ngoài thế giới chúng
ta đang sống có thể còn có nhiều thế giới tương tự khác nữa. Điều này trái với
lời của Thượng Đế trong Thánh Kinh: Trái đất là trung tâm của thế giới duy nhất
mà chúng ta đang sống. Do đó, Bruno bị bắt giam trong 6 năm. Sau cùng, vì từ chối
không chịu chấp nhận những điều trái với niềm tin bắt nguồn từ những kết quả
nghiên cứu khoa học vững chắc mà ông cho là đúng dù rằng nếu chấp nhận là sai
ông sẽ được tự do, ông bị đưa ra tòa án xử dị giáo, kết án, dứt phép thông công
và bị tuyên án tử hình bằng cách thiêu sống. Ông bị các Linh Mục, những người
có lòng thương yêu kẻ thù (theo như lời dạy của Giê-su trong Thánh Kinh. TCN),
dẫn từ nhà tù ra nơi hành hình. Ông bị cột vào một cọc xung quanh có chất củi.
Rồi các Linh Mục, đệ tử của Chúa Ki-Tô, châm lửa và thiêu sống vị Thánh tử đạo
vĩ đại nhất, hoàn hảo nhất này. (He believed in a plurality of worlds, in
the rotation of this, in the heliocentric theory. For these crimes, and for
these alone, he was imprisoned for six years. He was offered his liberty, if he
would recant. Bruno refused to stain his soul by denying what he believed to be
true. He was tried, condemned, excommunicated and sentenced to be burned.
He was taken from his cell by the priests, by those who loved their enemies,
led to the place of execution.He was chained to a stake and about his body the
wood was piled. Then priests, followers of Christ, lighted the fagots and
flames consumed the greatest, the most perfect martyr, that ever suffered death.
("Ingersoll The Magnificient" By Joseph Lewis)).
Năm 1616, kính thiên văn đầu tiên của Galilei đã làm cho vòm trời
trong Thánh Kinh rớt ra từng mảng. Công cuộc khảo cứu của Galileo Galilei dựa
trên sự quan sát thiên văn qua hàng loạt những kính thiên văn ngày càng tân kỳ
hơn, đã thực chứng quan niệm của Bruno và đồng thời khẳng định thuyết của
Copernicus như là một chân lý khoa học. Chúng ta đã biết, năm 1633, dưới triều
Giáo Hoàng Urban VIII, tòa án xử dị giáo đã buộc Galilei phải sửa đổi khám phá
khoa học của ông cho phù hợp với Thánh Kinh, nghĩa là mặt trời quay xung quanh
trái đất, và dù vậy ông ta vẫn bị biệt giam tại nhà cho đến khi chết vào năm
1642. Chuyện được kể như sau:
"Năm 1633, khi Galileo, dựa trên những dữ kiện khoa học
không thể phủ nhận, đoan quyết trong một cuốn sách khảo cứu thiên văn của ông rằng:
không phải là mặt trời quay xung quanh trái đất mà chính là trái đất quay xung
quanh mặt trời, thì ông bị kéo ra trước tòa án dị giáo của giáo hoàng Urban
VIII, vốn là bạn của Galileo. Khi đó ông đã già, gần chết. Giáo hoàng phán:
"Trước khi chết, ngươi hãy sửa lại điều trên vì nó ngược lại với Thánh
kinh. Bất cứ điều nào ngược với Thánh kinh đều đương nhiên sai lầm, vì thánh
kinh là lời của Thượng Đế”. Galileo là một khoa học gia vĩ đại, dù đã 80 tuổi,
sắp chết, nhưng vẫn còn đầy đủ óc khôi hài tuyệt vời. Ông nói: "Không
thành vấn đề, tôi sẽ sửa lại lời tôi viết, tôi sẽ viết lại trong sách của tôi
đúng như lời Thượng Đế đã viết trong Thánh kinh - nghĩa là mặt trời quay xung
quanh trái đất. Nhưng có một điều tôi cần trình ngài rõ: cả trái đất lẫn mặt trời
đều không đọc sách của tôi. Và sự thực thì, trái đất sẽ tiếp tục quay xung
quanh mặt trời. Nếu ngài nhất định muốn biết tại sao thì tôi có đầy đủ bằng chứng.
Tôi đã dùng cả đời tôi để nghiên cứu vấn đề này, và những người có đầu óc khoa
học đều tuyệt đối đồng ý với sự khám phá của tôi. Trước sau gì rồi ngài cũng phải
đồng ý vì không ai có thể chống lại sự thực lâu dài”. (Galileo was a great
scientist who, even at the age of eighty, when he was dying, had such a
beautiful sense of humor. He said: There is no problem. I will change it;
I will write in my book exactly what God has written in the bible - that the
sun goes around the earth. But one thing I must make clear to you: neither the
sun reads my book nor the earth reads my book. As far as reality is concerned,
the earth will continue going around the sun. And why should you insist?
Because I have every proof; I have devoted my whole life to the search, and all
those who have a scientific mind are in absolute agreement with me.
Sooner or later you will have to agree because one cannot remain against truth
for long. "Priests and Politicians", Second revised edition, Cologne,
West Germany, p.27)
Tuy vậy Galileo vẫn bị buộc phải sửa đổi sự thực khoa học ông đã
viết trong sách, bị kết án là "lạc đạo" và bị biệt giam tại nhà cho đến
khi ông chết, năm 1642. Nhưng lời tiên đoán của ông đã thành sự thực, tuy hơi
chậm. 359 năm sau, ngày 29 tháng 10 năm 1992, giáo hoàng John Paul II, tuyên bố
vụ án Galileo là một sai lầm và phục hồi danh dự cho Galileo, sau khi một ủy
ban gồm những bộ óc thượng thặng của Toà Thánh La Mã nghiên cứu trong 13 năm về
vấn đề Galileo. Trong dòng thời gian vô tận, 359 năm cũng chẳng phải là lâu.
Và, 13 năm dùng để nghiên cứu một vấn đề mà đối với toàn thế giới đã rõ như ban
ngày từ mấy trăm năm nay phải chăng phản ánh thực chất của những bộ óc thượng
thặng đang ngự trị trong Tòa Thánh Vatican?
Ngoài ra, cùng thời với Galilei còn có nhà thiên văn và toán học
người Đức là Johannes Kepler. Không những Kepler đồng ý với Copernicus và
Galilei mà ông còn đưa ra 3 định luật về cơ học các thiên thể (celestial
mechanics) để mô tả một cách vô cùng chính xác sự chuyển động của các hành
tinh, trong đó có trái đất, xung quanh mặt trời. Đó là:
1. Quỹ đạo của các hành tinh quay xung quanh mặt trời là hình
ellip (bầu dục) thay vì hình tròn.
2. Các hành tinh quét những khoảng không gian bằng nhau trong những
khoảng thời gian bằng nhau. (Nghĩa là tùy theo vị trí của hành tinh trên quỹ đạo
ellip, vận tốc chuyển động của hành tinh khác nhau).
3. Bình phương chu kỳ quay T (thời gian quay được một vòng quỹ đạo)
thì tỷ lệ thuận với lập phương khoảng cách trung bình R giữa hành tinh và mặt
trời. (T^2 tỷ lệ thuận với R^3).
Kepler cũng bị Tòa Thánh chỉ trích, hành hung và bắt bớ giam cầm
trong nhiều năm, nhưng các khoa học gia khác như Descartes, Fermat, Newton,
v.v. đều ủng hộ ông cùng góp phần phát minh ra những khám phá mới. Rút cục, giáo hội Thiên
Chúa giáo chỉ còn biết đưa ra sắc lệnh lên án các kết quả khảo cứu của
Copernicus và Galilei là sai lầm, thí dụ như: "Điểm thứ nhất, nói rằng mặt
trời là trung tâm và không quay xung quanh trái đất, là điên rồ, vô nghĩa, sai
lầm về thần học, và là tà thuyết vì trái ngược hẳn với Thánh Kinh; và điểm thứ
hai, nói rằng trái đất không phải là trung tâm mà lại quay xung quanh mặt trời,
là vô nghĩa, sai lầm về triết lý, và ít nhất từ quan điểm thần học, đối nghịch
với chân tín ngưỡng". (The
first proposition, that the sun is the centre and does not revolve about the
earth, is foolish, absurd, false in theology, and heretical, because expressely
contrary to the Holy Scriptures; and the second proposition, that the
earth is not the centre but revolves about the sun, is absurd, false in
philosophy, and from a theological point of view at least, opposed to the true
faith. ("The Scientific Revolution" Edited by Vern L. Bullough.)
Và cấm các giáo sĩ và con chiên đọc sách của Copernicus và Galilei.
Lệnh cấm này kéo dài suốt 278 năm cho tới năm 1821 mới được Giáo
Hoàng Pius VII thu hồi. Nhưng cấm thì cứ cấm, giới trí thức cùng người dân đọc
thì vẫn cứ đọc. Dần dần quyền hành tôn giáo ở Âu Châu không còn địa vị độc tôn
và giữ quyền sinh sát như trước nữa, vì cuộc cách mạng khoa học và các phát triển
khoa học về sau trong mọi ngành, nhất là về nhân chủng học và di truyền học, và
phương pháp định tuổi của vật chất bằng phóng xạ đồng vị của Carbon và của vài
nguyên tố khác đã làm sụp đổ tận gốc rễ thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh, căn bản
tín ngưỡng của Thiên Chúa giáo. Đó là ảnh hưởng trực tiếp to lớn của cuộc cách
mạng khoa học trên xã hội Tây phương. Ngày nay, những người còn tin ở thuyết
sáng tạo là do lòng tin lập thành trong tôn giáo chứ không phải lòng tin qua
suy lý khoa học.
Nhiều trí thức khoa học hiện đại đã đặt vấn đề: trong một bối cảnh
lịch sử cách mạng khoa học như trên, thái độ của Phật Giáo sẽ ra sao? Cũng có
vài trí thức Tây phương cho rằng có thể thái độ của Phật Giáo cũng tương tự như
của Thiên Chúa Giáo (Some Western writers on religion seem to have assumed that
this was so ("Buddhism and the Scientific Revolution" By K. N.
Jayatilleke)), nhưng những người hiểu biết chút ít về Phật Giáo thì lại bác bỏ hoàn
toàn luận cứ này. Thật vậy, giáo lý căn bản của Phật giáo là chứng nghiệm bản
thân, cho nên rất phù hợp với tinh thần khoa học. Hơn nữa, Phật Giáo không có
Thánh Kinh, không có bí tích bắt buộc phật tử phải tin, không có thần quyền,
không có giáo điều khô cứng, cho nên chúng ta có thể đoan chắc rằng Phật giáo sẽ
rất hòa hợp với những sáng tạo trong khoa học đừng nói đến chuyện đối kháng hay
tìm cách ngăn chặn, diệt trừ.
Về phương diện thuyết lý, quan niệm về vũ trụ của Bruno rất phù hợp
với quan niệm của Phật Giáo cách đây đã hơn 2500 năm về trước, rằng ngoài
thế giới chúng ta đang sống còn có hằng hà sa số thế giới khác. Nếu Bruno sống
trong một xứ Phật Giáo thì Bruno sẽ được tôn vinh thay vì đưa lên giàn hỏa để
thiêu sống. Quan niệm tương đối trong các Kinh Phật không có gì trái nghịch với
quan niệm của Copernicus và Galilei về các chuyển động của trái đất và các hành
tinh xung quanh mặt trời. Thật vậy, theo Phật Giáo thì mọi sự vật trên thế gian
đều chỉ là tương đối. Điều này có nghĩa là hình sắc, tính chất của mọi sự vật
luôn luôn biến đổi tùy theo cảnh giới trong đó sự vật thể hiện. Nói một
cách giản dị thì tương đối có nghĩa là "thấy vậy mà không phải vậy",
bởi lẽ tùy theo quan điểm và vị thế quan sát của mỗi người, danh từ khoa học gọi
là "hệ thống quy chiếu", hình sắc và tính chất của một vật có thể
khác nhau. Cho nên, một Thiền Sư hay một phật tử có thể hiểu rất rơ rằng
trong Thái Dương Hệ thì trái đất quay xung quanh mặt trời, nhưng hàng ngày thì
vẫn thấy mặt trời "mọc" ở phương Đông và "lặn" ở phương
Tây. Hai điều này không có gì là trái ngược nhau, vì một thuộc Chân Đế và một
thuộc Tục Đế.
Cuộc cách mạng khoa học đã mở đầu cho một kỷ nguyên mới cho nền
khoa học tân tiến hiện đại, và cho tới ngày nay khoa học đã đạt được nhiều
thành quả ngoạn mục trong mọi ngành. Song song với sự phát triển của khoa học,
càng ngày các khoa học gia càng nhận ra sự tương đồng giữa những quan niệm xa
xưa của Phật Giáo và những khám phá mới của Khoa học, và trong nhiều vấn đề tư
tưởng Phật Giáo đã đi trước khoa học khá xa. Không những vậy, trong nhiều trường
hợp, các khoa học gia đã phải mượn những tư tưởng trong Phật Giáo để giải thích
những hiện tượng khoa học. Lẽ dĩ nhiên, trong một bài viết ngắn ngủi tôi không
thể nào kể ra hết những sự tương đồng, dù chỉ ở ngoài mặt, giữa khoa học và Phật
Giáo. Sau đây tôi chỉ xin nêu ra vài thí dụ quen thuộc.
Sự phát minh ra kính hiển vi rồi kính hiển vi điện tử đã giúp con
người nhìn thấy những vật nhỏ li ti như các vi khuẩn mà mắt thường không thể
nhìn thấy được. Nhưng ngày xưa, Đức Phật đã dạy các đệ tử mỗi khi uống nước hãy
niệm chú để phổ độ cho các chúng sinh nhỏ nhoi ở trong nước và ngài còn khẳng định
trong mỗi giọt nước có tới 84000 vi sinh vật. Chúng ta nên hiểu con số trên,
tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng trong trường hợp này tượng trưng cho một con số lớn
chứ không phải là một con số chính xác. Điều Đức Phật dạy như trên ngày nay
chúng ta có thể kiểm chứng bằng kính hiển vi. Đọc Kinh Phật càng ngày tôi càng
thấy nhiều điều kỳ lạ. Ở một thời chưa có những dụng cụ khoa học tinh vi, nền
khoa học Tây phương còn phôi thai, mà Đức Phật đã biết những điều mà hơn 2000
năm sau khoa học tiến bộ Tây phương mới kiểm chứng được, tôi nghĩ không có cách
giải thích nào khác ngoài sự tin tưởng rằng Đức Phật đã biết rõ cơ cấu huyền bí
của vũ trụ. Thí dụ sau đây sẽ chứng tỏ luận cứ trên không phải là hoang đường.
Chúng ta đã biết, về thời gian thì Phật giáo có quan niệm "vô
thỉ, vô chung", không có bắt đầu và cũng không có tận cùng. Và khi được hỏi
là vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, hay vừa hữu hạn vừa vô hạn, hay vừa không hữu hạn
vừa không vô hạn, thì Đức Phật giữ yên lặng, không trả lời. Có người diễn giảng
là: sự hiểu biết về những vấn đề này không ích lợi gì cho sự tu tập trong Phật
giáo nên Đức Phật không trả lời để cho hành giả khỏi vướng mắc vào những sự viễn
vông mà lo vấn đề tu tập, thực tế hơn. Cũng có người giảng giải là Đức Phật giữ
yên lặng để hiển dương tính vô chấp trong Phật Giáo. Nhưng nếu chúng ta tìm hiểu
ít nhiều về những tiến bộ của khoa học hiện đại thì có thể chúng ta sẽ thấy rằng
Đức Phật không trả lời vì Người đã nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ, và thái
độ của Người cách đây hơn 2500 năm hoàn toàn phù hợp với những khám phá hiện đại
nhất của khoa học.
Thật vậy, các khoa học gia, tuy chưa đạt tới kết luận chung cùng về
nguồn gốc loài người và nguồn gốc vũ trụ, nhưng tất cả đều đồng ý là thuyết
sáng tạo có rất nhiều mâu thuẫn, vô lý, và phản khoa học. Thí dụ như ánh sáng
là những sóng điện từ và màu sắc của ánh sáng tùy thuộc tần số dao động của ánh sáng. Ta có
thể phân một loại ánh sáng, thí dụ như ánh sáng trắng, ra làm nhiều ánh sáng
màu sắc khác nhau qua một chiếc lăng kính chẳng hạn, nhưng ánh sáng không phải
là một "vật" mà ta có thể chia làm 2 phần, sáng và tối, như Thượng Đế
đã làm trong ngày thứ nhất của thuyết sáng tạo. Tối là vì không có ánh sáng chứ
tối không phải là một phần của ánh sáng. Thí dụ thứ hai là khoa di truyền
học ngày nay đã chứng tỏ rằng các giống người khác nhau là do những đột biến di
truyền trong những khoảng thời gian rất dài, không thể quan sát được trong một
vài đời người. Trong hiện tại, không có một cặp vợ chồng người Việt Nam nào có
thể sinh ra một đứa con Phi Châu đen ngòm tuy thuyết Tiến Hóa không bác bỏ điều
rất có thể trong vài trăm ngàn năm sau, giống người Việt Nam sẽ dần dần đổi
khác. Thuyết Tiến Hóa cũng đã bác bỏ huyền thoại Adam và Eva là tổ tông loài
người, v.v.
Charles Darwin đã đưa ra thuyết tiến hóa nhưng cho tới nay vẫn chưa hoàn toàn
thuyết phục tất cả mọi người. Chúng ta đã biết, Phật giáo không chấp nhận thuyết
sáng tạo và khoa học cũng vậy và còn đang trên đường tìm ra chân lý. Hi vọng
trong tương lai khoa học sẽ đưa ra một thuyết phù hợp với quan niệm nghiệp chuyển
vô thỉ vô chung của Phật giáo.
Sau đây tôi xin trình bày hết sức sơ lược quan niệm về thời gian
và vũ trụ của khoa học hiện đại. Chúng ta sẽ thấy những quan niệm này cũng là
những quan niệm xa xưa của Phật giáo. Vấn đề khá phức tạp nhưng phần lớn những
điều tôi viết sau đây đều có thể chứng minh bằng toán học.
Thuyết tương đối suy rộng (general theory of relativity) của
Albert Einstein đã vô cùng thành công trong việc áp dụng vào việc tìm hiểu vũ
trụ. Trong những thập niên 1960 và 1970, các khoa học gia đã làm nhiều thí nghiệm
để kiểm chứng những sự tiên đoán dựa vào thuyết này, và trong mọi trường hợp,
thuyết tương đối suy rộng đã được công nhận là đúng. Thuyết tương đối, tuy
rất thành công trong việc tiên đoán các hiện tượng ở cấp thô đại, nhưng lại gặp
nhiều khó khăn chưa giải quyết được khi áp dụng thuyết này vào những trường hợp
ở cấp cực vi, tiềm nguyên tử (subatomic), cấp vật chất thuộc lãnh vực khảo sát
của cơ học nguyên lượng (quantum mechanics). Tuy nhiên, thuyết tương đối của
Einstein đã cho chúng ta một hình ảnh chính xác về vũ trụ: "vũ trụ có
thể có 3 cấu hình, hoặc mở, hoặc đóng, hoặc phẳng dẹt." (Einstein's theory
tell us that there are three possible configurations that the universe might
have. It is either open, or closed, or flat. ("The Edges of
Science" By Richard Morris)). Nhưng dù theo cấu hình nào thì vũ trụ cũng
phát khởi từ một sự bùng nổ lớn (big bang). Thuyết "big bang" ngày
nay đã được mọi người chấp nhận kể cả Thiên Chúa giáo như tôi sẽ trình bày
trong một đoạn sau.
Thuyết "big bang" bắt nguồn từ sự khám phá ra hiện tượng
"vũ trụ nở rộng" (expansion of the universe) của Edwin Hubble vào năm
1929. Hubble quan sát được rằng, các thiên hà (galaxy) cứ di chuyển mỗi ngày một
xa trái đất hơn, và thiên hà nào càng ở xa trái đất thì di chuyển càng nhanh,
và khoảng cách giữa các thiên hà cũng càng ngày càng xa dần. Điều này chứng tỏ
vũ trụ không cố định mà càng ngày càng nở rộng. Tính ngược thời gian thì tại một
thời điểm nào đó, cách đây khoảng 15 tỉ năm, vũ trụ chỉ là một dị điểm
(singularity) vô cùng nóng và vô cùng đặc theo nghĩa dị điểm này có 1 chất lượng
vô tận (infinite mass). Dị điểm này bùng nổ và biến đổi dần dần thành vũ
trụ hiện nay. Sự bùng nổ lớn này (big bang) được coi như là nguồn gốc của vũ trụ,
và vũ trụ có cấu hình nào, đóng, hay mở, hay phẳng dẹt, là do số lượng vật chất
có trong vũ trụ. Không đi vào chi tiết, vũ trụ đóng là một vũ trụ hữu hạn trong
đó không gian tự khép lại trên chính nó nhưng không có biên giới. Khuôn mẫu này
khá trừu tượng nhưng có thể mô tả được bằng toán học và người ta có thể tìm hiểu
tính chất của nó một cách khá chi tiết. Lượng vật chất trong vũ trụ đóng này sẽ
làm cho vũ trụ ngưng nở rộng trong tương lai và vũ trụ lại co lại dần dần thành
1 dị điểm như lúc đầu, danh từ khoa học gọi là sự "tới hạn lớn" (big
crunch). Vũ trụ mở thì vô hạn (infinite), luôn luôn nở rộng vì lượng vật chất
trong đó không đủ để làm ngưng sự nở rộng này. Trọng trường có thể làm
cho sự nở rộng càng ngày càng chậm nhưng không bao giờ ngưng. Vũ trụ phẳng dẹt
là vũ trụ trong đó lượng vật chất đã tới hạn, nghĩa là vừa đủ để làm cho sự nở
rộng hầu như ngưng lại mà không phải là ngưng.
Như trên đã nói, thuyết "big bang" đã được hầu như mọi
người đều chấp nhận kể cả Thiên Chúa giáo La Mã. Thật vậy, Stephen Hawking, một
vật lý gia nổi tiếng nhất hiện nay về những thuyết vũ trụ của ông đã kể như
sau: "Năm
1981, khi dự một cuộc hội thảo về vũ trụ học do các Linh mục dòng Tên tổ chức ở
Vatican, tôi lại quan tâm tới vấn đề nguồn gốc và số phận của vũ trụ. Giáo hội
Gia Tô đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng đối với Galileo khi đặt luật lệ
tôn giáo trên một vấn đề khoa học, rằng mặt trời quay xung quanh trái đất. Nay,
nhiều thế kỷ sau, giáo hội quyết định mời một số chuyên gia để cố vấn cho họ về
vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các tham dự viên được hội kiến với Giáo hoàng.
Ông ấy bảo chúng tôi rằng có thể nghiên cứu về sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ
bùng lớn, nhưng không nên tìm hiểu về chính sự bùng nổ lớn vì đó là lúc sáng tạo
và đó là sáng tạo của Thượng Đế. Tôi rất mừng vì ông ta không biết đến đề tài
mà tôi mới trình bày trong cuộc hội thảo - có thể là miền không - thời gian hữu
định nhưng không có biên giới, nghĩa là không có bắt đầu, không có lúc Sáng Tạo."
(In 1981 my
interest in questions about the origin and fate of the universe was reawakened
when I attended a conference on cosmology organized vy the Jesuits in the
Vatican. The Catholic Church had made a bad mistake with Galileo when it tried
to lay down the law on a question of science, declaring that the sun went
around the earth. Now, centuries later, it had decided to invite a number of
experts to advise it on cosmology. At the end of the conference the
participants were granted an audience with the pope. He told us that it
was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we
should not inquire into the big bang itself because that was the moment of
Creation and therefore the work of God. I was glad then that he did not know
the subject of the talk I had just given at the conference - the possibility
that space-time was finite but had no boundary, which means that it had no
beginning, no moment of Creation. ("A Brief History of Time" By
Stephen Hawking, p. 116)).
Theo Stephen Hawking thì "điều kiện biên của vũ trụ là không
có biên giới". Vũ trụ có tính cách hoàn toàn tự có sẵn và không bị ảnh hưởng
của bất cứ gì ở ngoài nó. Vũ trụ chẳng sanh chẳng diệt. Nó là như vậy.
("The boundary condition of the universe is that it has no boundary.
"The universe would be completely self-contained and not affected by
anything outside itself. It would neither be created nor destroyed.
It would just be. (Ibid., p. 136)).
Một câu hỏi liên quan đến quan niệm về thời gian là: Trước sự bùng
nổ lớn thì thời gian ra sao? Theo khoa học thì khi vũ trụ là một dị điểm thì tất
cả những định luật vật lý, kể cả quan niệm về thời gian đều không áp dụng được. Vì khi đó thời
gian không còn tính chất của thời gian nữa, ít nhất là theo nghĩa chúng ta thường
hiểu về thời gian. Cho nên, không thể nói là vũ trụ bắt đầu từ đâu, sanh ra từ
đâu. Thuyết này đã được kiểm chứng bằng toán học và hoàn toàn phù hợp với những
sự kiện trong khuôn mẫu nở rộng của vũ trụ (inflationary paradigm). Theo
Hawking, nếu vũ trụ chẳng sanh thì tất nhiên nó cũng chẳng diệt, vì thời gian cũng
trở thành vô biên (no boundary in time). Nếu thuyết của Hawking đúng thì vũ trụ
có cấu hình đóng như đã mô tả ở trên, nghĩa là tới một thời điểm nào đó thì vũ
trụ ngưng dãn thêm và bắt đầu co dần trở lại thành 1 dị điểm. Vậy sau đó thì
sao? Câu hỏi này không thích hợp vì không có gì có thể gọi là "sau đó".
"Sau đó" nằm trong phạm trù của quan niệm về một dòng thời gian,
nhưng thời gian lại mất thời gian tính khi vũ trụ là một dị điểm, cho nên những
thắc mắc về "trước big bang" và "sau big crunch" là những
thắc mắc vô nghĩa.
Chúng ta thấy rằng, những thuyết mới nhất về vũ trụ trong khoa học
hiện đại rất phù hợp với quan niệm "vô thỉ vô chung", "vô thường"
của Phật Giáo, và thái độ giữ yên lặng của đức Phật trước những câu hỏi về siêu
hình đã phản ánh sự kiện nắm vững cơ cấu huyền bí của vũ trụ của Người. Cho
nên, chúng ta có thể nói, đối với cuộc cách mạng khoa học, Phật giáo không có
gì phải chống đối, vì thật ra cuộc cách mạng khoa học đã nằm trong các tư tưởng
Phật giáo rồi. Kinh điển Phật giáo là một rừng tư tưởng vĩ đại, rất phù hợp với
tính chất thực tế của khoa học, tự hợp (self-consistent), tự giải
(self-explained), hoàn toàn không có chút nào huyền hoặc, viễn vông. Tâm Kinh
viết rằng: "Không tướng của mọi Pháp chẳng sanh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng
sạch, chẳng tăng chẳng giảm" chẳng phải đã nói lên tính chất không phụ thuộc
vào thời gian, không gian, mà còn đi xa hơn, không phụ thuộc vào cả tính chất vật
lý nữa? Các Thiền sư thường nói: thực chứng được Tính Không của mọi
Pháp là thực chứng được Phật Tánh. Nay chúng ta đã hiểu tại sao một số
luận gia đã so sánh Phật Tánh, Chân Như với Vũ Trụ vì ngoài đặc tính chẳng sanh
chẳng diệt, chẳng tăng chẳng giảm (lượng vật chất trong vũ trụ luôn luôn như vậy
bất kể vũ trụ co hay dãn), ngày nay, một số khoa học gia còn quan niệm phải
nhìn vũ trụ một cách toàn ký (holographic view of the universe). Cách nhìn toàn ký vũ trụ là nội
dung của Kinh Hoa Nghiêm, hiển nhiên không thuộc phạm vi đề tài của bài viết
này, nhưng tôi sẽ trình bày cách nhìn này trong một bài khác.
Trích từ sách PHẬT GIÁO VÀ KHOA HỌC của PHÚC LÂM