Cách đây 18 năm,
Fritjof Capra xuất bản cuốn Đạo của Vật Lý (The
Tao of Physics). Cuốn này tức thời nổi tiếng, cả
hai giới khoa học và bình dân đều tán thưởng
cuốn sách này. Phản ứng trên thật ra cũng dễ
hiểu, vì có thể nói đây là lần đầu tiên một
vật-lý-gia đã viết một cách bình dân dễ hiểu để
đưa ra và so sánh khá nhiều những sự giống nhau
giữa những quan niệm mới của khoa vật-lý-học các
hạt nhỏ và triết lý tôn giáo Đông Phương, đặc
biệt nhất là Đạo Phật.
Sau đó Gary Zukav
xuất bản cuốn Điệu Vũ Của Các Thầy Vật-Lý (The
Dancing of Wu-Li Masters), và Michael Talbot,
cuốn Huyền Nhiệm học và Vật-Lý Mới (Mysticism
and the New Physics). Hai cuốn này viết theo
đường hướng giống như của Capra nhưng không có
gì đặc biệt hơn, và cũng không nổi tiếng bằng
cuốn The Tao of Physics.
Có một điểm chung
trong cả ba cuốn sách nêu trên: muốn giải thích
một số hiện tượng trong ngành Vật-Lý các hạt nhỏ
ở mức năng lượng cao (high energy particle
physics), các khoa học gia phải nhờ vào những
quan niệm xa xưa của các tôn giáo Đông Phương,
nhất là Đạo Phật. Nói cách khác, triết lý Phật
giáo đã giúp các khoa học gia giải quyết được
một số khó khăn trong ngành vật lý mới.
Trong khi đó, gần
đây, một số phật tử, có lẽ có mặc cảm trước
những hào quang tiến bộ của khoa học vật chất,
lại theo con đường ngược lại, tìm cách dùng khoa
học để "chứng minh" một số quan niệm trong Phật
Giáo, cho rằng như vậy là để làm tăng uy tín của
Phật Giáo. Tôi cho rằng đấy là một hành động
ngược chiều.
Trong bài này tôi
sẽ cố gắng trình bày để các độc giả thấy rõ phần
nào một sự thực: những căn bản, phương pháp khảo
cứu khoa học, những tiêu chuẩn khảo cứu trong
khoa học thực nghiệm, v.v. đều có thể tìm thấy
trong những kinh điển Phật Giáo, chưa kể tới một
số thành quả trong khoa học tân tiến ngày nay
chẳng qua cũng chỉ là khám phá lại những điều mà
đức Phật và các đệ tử truyền thừa đã khám phá ra
từ hơn 2000 năm về trước.
Nhưng trước hết,
có lẽ chúng ta cũng nên duyệt qua vài nhận định
về Phật Giáo và Khoa học của một số người có tên
tuổi trong cộng đồng quốc tế.
1. Albert
Einstein, nhà Khoa học nổi tiếng nhất thế kỷ
20 về thuyết tương đối trong vật-lý, đã phát
biểu như sau:
"Nếu có
một tôn giáo nào thích nghi được với những nhu
cầu khoa học tân tiến thì đó là Phật Giáo." (If
there is any religion that would cope with
modern scientific needs it would be Buddhism).
2. Sir Edwin
Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ Ánh Sáng
Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng: "Tôi
thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là giữa Phật
Giáo và Khoa học tân tiến có một mối ràng buộc
trí thức gần gũi." (I have often said, and I
shall say again and again, that between Buđhism
and modern Science there exists a close
intellectual bond.)
3. Bertrand
Russell, nhà triết-học và toán-học nổi tiếng
hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử Triết học Tây
Phương (History of Western Philosophy) đã viết:
"... Phật giáo là một tổ hợp của triết lý suy
cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ
phương pháp khoa học và theo phương pháp này để
tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật
Giáo còn đi xa hơn khoa học vì khoa học bị giới
hạn bởi những dụng cụ vật lý." (... Buddhism is
a combination of both speculative and scientific
philosophy. It advocates the Scientific method
and pursues that to a finality that may be
called rationalistic...It takes up where science
cannnot lead because of the limitations of the
latter's physical instruments.)
4. Tiến sĩ
Radhakrishnan: "Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối
với trí óc tân tiến đó là vì Phật Giáo có tinh
thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là
dựa trên bất cứ giáo điều nào" (If Buddhism
appealed to the modern mind it was because it
was scientific, empirical and not based on any
dogma.)
5. Tiến sĩ
Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi tiếng của
Anh Quốc đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể nhận
thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã
biết về những vấn đề mới về tâm lý nhiều hơn là
chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những
vấn đề này từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức
giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ khám phá
lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to realize
that the Buddhists knew, 2,000 years ago, far
more about modern problems of psychology than
they have been given credit for. They studied
these problems long ago and found the answers
also. We are now rediscovering the ancient
wisdom of the East.)
Chúng ta hãy tìm
hiểu tại sao những nhân vật nổi danh trên, và
nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết
ra đây, lại đưa ra những nhận định như vậy.
A) Chúng ta biết
rằng đối tượng khảo sát của khoa vật-lý-học là
vật chất. Khi khảo sát vật chất, các khoa học
gia thường dùng năm giác quan như mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân để biết về những đối tượng của giác
quan như hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác
qua sự tiếp xúc, và những thứ còn lưu lại trong
ý thức.
Ngoài ra những
khảo sát khoa học thường được đặt trong những
khái niệm về thời gian, phương hướng, vận tốc di
chuyển, thứ tự, và số lượng, cộng với những dụng
cụ đo lường do con người phát minh để đáp ứng
những nhu cầu khảo sát.
Nếu chúng ta biết
về Duy Thức Học trong Phật Giáo thì chúng ta
thấy rằng các khoa học gia chỉ dùng có 16 phần
trăm của số 100 Pháp được phân loại thành 8 Tâm
Pháp, 51 Tâm Sở Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm
Bất Tương Ưng Hành Pháp, và 6 Vô Vi Pháp (Xin
đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận), nghĩa là
các Khoa học gia chỉ sử dụng tới 11 Sắc Pháp
trong đó có 5 căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn,
thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, và
thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần,
hương trần, vị trần, xúc trần, và Pháp trần (hình
tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp xúc,
và bóng dáng của 5 trần trên còn lưu lại trong ý
thức khi các căn không còn tiếp xúc trực tiếp
với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số 21
tâm bất tương ưng hành pháp là thời gian, phương
hướng, vận tốc di chuyển, số lượng, và thứ tự (thời,
phương, thế tốc, số, và thứ đệ).
Ở đây tôi không
có ý định đi sâu vào thiên luận 100 Pháp đại
thừa mà chỉ muốn nói lên điểm cốt yếu như sau:
khi mà khoa học không thể tiến hơn được nữa vì
những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và của
những dụng cụ đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp
tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật Pháp, ngoài sự khảo
sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều
đến những vấn đề tâm linh, cho nên đã vượt qua,
đi ra ngoài những giới hạn vật lý của Khoa học.
Do đó chúng ta có
thể nói Phật Giáo là một Siêu Khoa học (Super
science) được thành lập trên căn bản trí tuệ Bát
Nhã (trí tuệ nhận thức được thực tướng của vạn
Pháp). Trong Phật Giáo, Duy Thức Học cho chúng
ta một hệ thống triết lý, phân tâm học rất đầy
đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào trong khoa
học hiện đại.
B) Nếu chúng ta
đã quen với cách viết một bản phúc trình khoa
học thì chúng ta thấy rằng, ngay ở phần đầu của
bản phúc trình chúng ta phải liệt kê những điểm
sau đây: tên người phụ trách chính và các phụ tá
nếu có, thời gian và nơi làm thí nghiệm, đối
tượng của thí nghiệm, những vật liệu và dụng cụ
máy móc dùng để làm thí nghiệm, trước khi viết
phần chính của bản phúc trình. Điều này hầu như
là một mẫu mực chung trong giới khoa học. Nay ta
thử đi vào cấu trúc của các kinh điển Phật Giáo.
Tất cả kinh Phật
đều được bắt đầu bằng một phần thông tự mà ngay
đầu tiên là 6 điều tin chứng hay 6 điều thành
tựu (lục chủng chứng tín hay lục chủng thành tựu):
Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng.
Muốn hiểu rõ hơn
chúng ta hãy lấy một thí dụ: Kinh Thủ Lăng
Nghiêm. Kinh Lăng Nghiêm bắt đầu bằng: "Tôi nghe
như vậy, một thời nọ, Phật ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn,
thành Thất La Phiệt, cùng 1250 đại Tỳ Khưu ..."
"Như vậy" biểu thị một khẳng định đáng tin (Tín),
"Tôi nghe" biểu thị nguồn gốc của sự hiểu biết (Văn),
"Một thời nọ" chỉ định thời gian tính (Thời), "Phật"
chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị hóa chủ của đại
chúng và là người thuyết Kinh (Chủ), "Tại ..."
chỉ nơi thuyết Kinh (Xứ), "Cùng với...." chỉ
những người nghe Phật thuyết Kinh (Chúng).
Như vậy, phần
thông tự chứng tỏ tính chất xác thực của Kinh,
và 6 điểm kể trên đã dự phần bố trí hệ thống của
toàn Kinh và biện chứng để dẫn khởi lòng tin
tưởng của người học Phật, cho nên được gọi là 6
điểm thành tựu. Cái tinh thần chính xác, rõ ràng,
minh bạch của Kinh Phật cũng là cái tinh thần mà
các khoa học gia ngày nay đòi hỏi phải hội đủ
trong bất cứ một công cuộc thí nghiệm nào.
C) Đi
thêm vào chi tiết, nếu chúng ta đọc cuốn huấn
thị cho khoa học (Instruction Book of Science)
chúng ta thấy phương pháp khảo cứu Khoa học được
đặt trên một số tiêu chuẩn như sau:
1. Đối tượng của
thí nghiệm (The objects of the experiment).
2. Vật liệu, dụng
cụ cần thiết để làm thí nghiệm (The materials,
instruments and tools necessary for the
experiment).
3. Lý thuyết về
thí nghiệm (The theory of the experiment).
4. Phương pháp và
tiến trình thí nghiệm (Methods and steps to work
out the experiment).
5. Kết quả thí
nghiệm (Results of the experiment).
6. Những điều cần
để ý và coi chừng khi làm thí nghiệm (Requisites
for attention and precautions in working out the
experiment).
7. Kết luận để
kiểm chứng giá trị của lý thuyết và những kết
quả thực dụng của nó (Conclusion to verify the
validity of the theory and its practical
results).
Đọc Kinh Lăng
Nghiêm, chúng ta thấy trong Kinh có những phần
sau đây:
1. Nguyên nhân
Phật thuyết Kinh (Phần Thông Tự).
2. Đối tượng của
tu chơn tâm (7 thường trụ xứ của Tâm).
3. Lý thuyết tu
chơn tâm (Chỉ rõ Tính Thấy, Tóm thu 4 Khoa và 7
Đại về Như Lai Tạng để phát khởi chỗ chơn ngộ).
4. Phương pháp và
các trình độ tu chứng (25 phương pháp viên thông
và 7 Thánh vị).
5. Lợi ích của sự
tu tập, đối với cá nhân và chúng sinh (Tuyên nói
Tâm Chú, khai thị những lợi ích).
6. Những điều cần
để ý và coi chừng khi tu tập (Khai thị chỗ hư
vọng của 7 loài để khuyến khích tu hành chánh
Pháp và phân biệt các Ấm ma).
7. Kết luận (Phần
lưu thông, công đức trì Kinh, được Phúc, tiêu
tội, trừ ma).
Chúng ta có thể
thấy ngay những điểm giống nhau về phần cấu trúc
của cuốn huấn thị về khoa học và của cuốn Kinh
Phật.
Làm bảng so sánh
trên, tôi không có ý định chứng tỏ Khoa Học và
Phật Giáo giống nhau cả về hình thức lẫn nội
dung, mà chỉ muốn tỏ rõ một điều: Kinh Phật được
xếp đặt một cách rất khoa học. Điều này thật ra
cũng dễ hiểu, vì những phương pháp tu tập trong
Phật Giáo và những phương pháp khảo cứu khoa học
đều đặt trên những căn bản giống nhau:
1. Không để cho
tình cảm chi phối.
2. Hoàn toàn
khách quan.
3. Phân tách mọi
vấn đề một cách có hệ thống.
4. Kết quả dựa
trên thực nghiệm.
Ngoài ra Jeremy
W. Hayward, một vật lý gia nổi tiếng về những
thuyết trình của ông về Phật Giáo và tương quan
của Phật Giáo với những truyền thống Tây Phương
và khoa học, trong cuốn “Shifting Worlds,
Changing Minds: Where the Sciences and Buddhism
Meet” cũng đưa ra 4 tiêu chuẩn mà một hệ thống
tín ngưỡng cần hội đủ để cho con người có thể
chấp nhận với một tinh thần khoa học. Tôi không
có ý định bàn luận về những tiêu chuẩn này nên
không đi vào chi tiết, mà chỉ liệt kê sau đây 4
tiêu chuẩn của Hayward:
1. Ý thức được sự
tương đối của các hệ thống tín ngưỡng và sự
tương quan giữa "vũ trụ" và "tâm".
2. Có thể vạch rõ
chi tiết về sự hiện hành của "tâm" và "thực tại",
nghĩa là có thể đưa ra một lý thuyết duyên khởi
về sự biểu hiện của những đối đãi nhị nguyên
trong phạm trù nhất nguyên.
3. Có một kỹ
thuật, phương pháp để thực chứng chân lý "Không
hai" này.
4. Nhưng cùng lúc
không nằm ngoài vòng đối đãi nhị nguyên.
Và, Hayward chứng
tỏ rằng Phật Giáo đã hội đủ 4 tiêu chuẩn trên.
Chúng ta
đã thấy, Khoa học và Phật giáo có nhiều điểm
giống nhau. Nhưng thực ra thì đó chỉ là giống
nhau phần nào về phương diện hình thức, còn căn
bản thì vẫn khác nhau, vì đối tượng của khoa học
khác với đối tượng của Phật Giáo. Kiến thức khoa
học là về thế giới bên ngoài, đặc biệt là thế
giới vật chất, cho nên bị buộc trong không gian
và thời gian.
Trong khoa học,
cho tới bây giờ, chân lý chưa đạt được, vì khoa
học luôn luôn thay đổi để phù hợp với những hiểu
biết mới của con người. Khoa học chỉ có thể cung
cấp cho con người những dữ kiện tương đối. Trái
lại, trong Phật Giáo, chân lý đã được thể hiện
và có tính cách tuyệt đối, bởi vì Phật Giáo chú
trọng đến cái "biết" bên trong do thực chứng.
Phật Giáo đi thẳng tới chân lý tuyệt đối chứ
không cần qua ngả các phát minh tương đối.
Do đó, nhiều Khoa
học gia đã đồng ý rằng: Phật Giáo bắt đầu nơi
khoa học tận cùng (Buddhism begins where science
ends). Khoa học có thể cung cấp cho chúng ta
những tiện nghi thoải mái vật chất và trí thức,
nhưng không phải là chân lý, vì bản chất tương
đối tự tại của khoa học.
Chỉ khi
nào con người tiếp xúc được với tuyệt đối và
sống trong chân lý, khi đó con người mới có thể
có được chân hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vượt
ra ngoài mọi đối đãi nhị nguyên. Và đây chính là
cứu cánh chung cùng của Phật Giáo.
Trích từ
sách PHẬT GIÁO VÀ KHOA
HỌC của PHÚC
LÂM