Khoa Thần kinh học và Phật
giáo
chồng chéo lên nhau, vì thế những công trình nghiên cứu hợp tác có thể
mang
lại lợi ích cho cả hai. Đó là lời phát biểu của các diễn giả tại hội
nghị
hàng năm lần thứ 12 của Viện Tâm thức và Đời sống (Mind and Life
Institute).
Những người tổ chức Hội nghị cũng cho rằng Phật giáo và khoa học là hai
truyền thống mạnh mẽ nhất trên thế giới có khả năng khám phá thực tại
ngoại
cảnh và tâm thức con người.
Trong khi khoa học quan
sát tâm
thức từ bên ngoài thì Phật giáo sử dụng cái tâm con người – được thanh
lọc
qua quá trình tu tập thiền định như là công cụ chính yếu để thăm dò
nghiên
cứu bản chất của chính tâm thức.
Khả năng chuyển biến mềm
dẻo của
hệ thần kinh là đề tài của Hội nghị này. Hội nghị đề cập đến những sự
thay
đổi về cấu trúc và chức năng trong não bộ gây ra do sự tập luyện và
kinh
nghiệm. “Đề tài này là một nghiên cứu nhằm đóng góp cho mục đích lớn
hơn của
chúng tôi là nâng cao hiểu biết mang tính khoa học về cách tạo ra và
duy trì
một tâm thức lành mạnh”. Đó là lời phát biểu của ông R. Adam Engle, chủ
tọa
hội nghị và cũng là người đồng sáng lập Viện tâm thức và đời sống.
Toàn bộ Hội nghị xoay
quanh ý
kiến cho rằng việc sản sinh tế bào thần kinh mới trong não bộ có thể do
ảnh
hưởng của kinh nghiệm. Phần trình bày tính chất mềm dẻo về cấu trúc của
Fred
H.Cage, giáo sư ngành Di truyền tại Viện Salk ở California cho thấy rõ
não
bộ có thể biến đổi một cách năng động chứ không giữ nguyên cố định
trong
suốt cuộc đời.
Khám phá cho thấy rằng
những trải
nghiệm trong đời sống hàng ngày như tình trạng “stress”, sự vận động,
môi
trường thăng tiến và những yếu tố khác, tất cả đều có ảnh hưởng đến
việc sản
sinh tế bào thần kinh mới và do đó đưa đến những thay đổi trong não bộ.
Điều
này, theo các diễn giả trong hội nghị (năm ngày) là bao hàm nhiều ý
nghĩa
sâu rộng. Đây là một nhận thức khoa học khá mới mẻ nhưng chẳng có gì
mới lạ
đối với Phật giáo, và kiến thức này là nội dung của cuộc đối thoại.
Ở cấp độ phân tử, khả năng
biến
chuyển mềm dẻo của hệ thần kinh được Michael J. Meany thảo luận trong
phần
trình bày về ảnh hưởng của cách cha mẹ săn sóc con cái khiến người ta
có
những phản ứng căng thẳng khác nhau. Meany là giáo sư y khoa tại Trung
tâm
Nghiên cứu của Bệnh viện Dauglas thuộc Đại học McGill ở Canada nói:
“Việc
chăm sóc của bố mẹ ảnh hưởng đến hoạt động của các gien não qua sự biến
đổi
môi trường hóa học trong tế bào; do đó, nó quy định ra những phản ứng
“stress” của chúng ta và thiết lập nên một khuôn mẫu cho đời sống”.
Helen J. Neville, giám độc
Trung
tâm Thần kinh học về nhận thức thuộc Đại học Oregon, Eugene, bàn sâu
hơn nữa
vấn đề nuôi dạy ảnh hưởng đến tâm tính con cái với cái nhìn toàn diện
về các
khu chức năng được định vị trong não bộ. Bà chứng minh cho thấy các
chức
năng ngôn ngữ, cảm giác và tri giác bị biến đổi như thế nào qua kinh
nghiệm.
Người ta chú ý đến sự việc
Đức
Đạt Lai Lạt Ma đã nhiều lần tỏ ra dí dỏm hài hước giữa Hội nghị. Khi
Neville
nhấn mạnh rằng khu não bên trái của trán đóng vai trò thiết yếu đối với
ngôn
ngữ và các cảm xúc tích cực, ngài Đạt Lai Lạt Ma nói một câu dí dỏm:
“Tôi là
một người thiên tả!” Neville nhanh lẹ đáp: “Vì thế đệ tử này mới có mặt
ở
đây!”. Câu đáp này làm cử tọa cười rộ cùng với tiếng cười rúc rích như
con
nít của Ngài.
Phần trình bày về tình
trạng an
ổn với tình cảm gắn bó của Philip R. Shaver, chủ nhiệm khoa Tâm lý ở
Đại học
California, Davis, cho thấy sự củng cố những tình cảm an ổn – ngay cả ở
người lớn – làm gia tăng lòng khoan dung, đức từ bi và tính vị tha.
Vào ngày cuối hội nghị,
Phật giáo
và khoa học đã tích cực hợp tác, điều đó được thể hiện trong phần
nghiên cứu
của Richard J. Davidson. Trong phần này, hoạt động bộ não của những tu
sĩ
Phật giáo đã được nghiên cứu với những thiết bị phòng thí nghiệm – dùng
máy
ghi hình bằng điện từ do Davidson, giáo sư ở Trung tâm Nghiên cứu Vilas
và
William James, giáo sư Tâm lý và Tâm thần học ở Đại học
Wisconsin-Madison
tiến hành.
Mathieu Ricard, một tu sĩ
Phật
giáo và là nhà khoa học về di truyền đã phát biểu: “Chất lượng của các
phần
trình bày mang tính khoa học, tinh thần minh mẫn của những người tham
gia,
mức độ sâu sắc trong các câu hỏi của Đức Đạt Lai Lạt Ma và sự hợp tác
đã
hiển nhiên cho thấy (cuộc thí nghiệm) ấy vượt lên trên một bài giảng
dạy
khoa học. Ông nói tiếp: “Đức Đạt Lai Lạt Ma mở ra những viễn tượng mới
mẻ
cho các nhà khoa học, đưa ra những khuôn thước đạo đức và đôi khi các
nhận
thức của ngài thúc đẩy họ xét lại vị trí của mình”.
Theo lời ông Engle thuộc
Viện Tâm
thức và đời sống, “Mọi người khi rời hội nghị đều có một sự hiểu biết
sâu
hơn một số nguyên tắc về khả năng chuyển biến mềm dẻo của hệ thần kinh
và ít
ra cũng mang theo một giả thuyết đáng tin cậy là một số hình thức thiền
định
có thể rất hữu ích”. Ông nói thêm: “Theo tôi nghĩ, người ta cũng tin
chắc
rằng lĩnh vực này cần được nghiên cứu”.
Tuy giữa các nhà khoa học
và các
nhà thần học có sự đối nghịch hoàn toàn trong cuộc sống hàng ngày nhưng
với
tính hài hước của Đức Đạt Lai Lạt Ma, cung cách hòa nhã và sự hiện diện
vô
cùng sinh động của Ngài đã tạo bầu không khí hòa đồng trong năm ngày
hội
nghị.
Những tràng tiếng cười hể
hả của
ngài cất lên đều đặn làm tan biến nét ảm đạm của những phần trình bày
nặng
tính trí tuệ, giữ bầu không khí vui tươi và tạo điều kiện cho nhiều bộ
óc mở
rộng thêm khả năng nhận thức của họ vượt qua giới hạn bình thường.
Viện Tâm thức và đời sống
đã tổ
chức những buổi họp giữa các nhóm nhỏ nhà khoa học với Đức Đạt Lai Lạt
Ma từ
năm 1987. Hội nghị hàng năm kế tiếp tổ chức vào ngày 29-9 đến 2-10 tại
thủ
đô Washington, đề cập về ứng dụng thiền định trong khoa học và y học
lâm
sàng.
CHÂU VĂN THUẬN
dịch
(theo Văn Hoá Phật Giáo)