I.- Dẫn nhập:
Chúng ta đã
biết xưa kia Phật giáo từ Ấn Ðộ truyền
thẳng sang Việt Nam; có thể, một số tông phái cũng
được truyền
sang Việt Nam nhưng không được truyền bá sâu
rộng, dần dần bị thất truyền. Các tông
phái Phật giáo Trung Hoa truyền sang Việt Nam, có lẽ
cũng gần giống như vậy, riêng
về Thiền Tông, Tịnh Ðộ Tông, Mật Tông vẫn
còn được truyền thừa. Có thể nói, tại
Việt Nam có những nét
đặc thù, nên có
những tông phái phát sinh tại Việt Nam, những tông
phái này cả Ấn Ðộ lẫn Trung Hoa đều không
có, chúng ta lần lượt tìm hiểu từng tông phái
chính tại Việt Nam.
II.- Các tông phái chính:
1- Thiền Tông:
Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma là vị
Tổ thứ 28 truyền thừa từ đệ nhất
Tổ Ca Diếp, từ Ấn Ðộ sang
Trung Hoa hoằng dương chánh pháp, Ngài trở thành
đệ nhất Tổ
Thiền Tông Trung Hoa. Nhiều thiền sư đã sang Việt
Nam truyền bá thiền tông, trong số đó có Tỳ Ni
Ða Lưu Chi, đệ tử của đệ tam Tổ
Tăng Xán sang Việt Nam năm 520, thành lập
phái thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi, đệ
tử của đệ cửu Tổ Bá Trượng Hoài
Hải là Vô Ngôn Thông sang Việt Nam năm 820, thành lập
phái thiền Vô Ngôn Thông, đệ tử của thiền
sư Tuyết Ðậu Minh Giám (980-1052) thuộc phái Văn
Môn, là ngài Thảo Ðường bị bắt làm tù binh
khi vua Lý Thánh Tôn chinh phạt Chiêm đem
về Thăng Long năm 1069, sau đó phát hiện ngài
là thiền sư liền được thả ra, ngài
đã thành lập phái Thiền Thảo Ðường và vua
đã phong ngài làm Thảo Ðường Quốc Sư. Các
phái thiền trên đều
thất truyền.
Hậu bán thế kỷ thứ
17, có ngài Nguyên Thiều thuộc dòng Lâm Tế đời
thứ 33, từ Trung Hoa sang Ðồng Nai rồi lần ra
Bình Ðịnh, Huế truyền bá Thiền Tông. Tiền bán
thế kỷ thứ 18, có ngài Liễu Quán Thiệt Diệu
đệ tử của ngài Tử Dung Minh Hoằng cũng
thuộc dòng Lâm Tế truyền thừa do nguồn gốc
của hai vị Thiền Sư này, có hai bài kệ truyền
thừa, theo đó
có thể biết được vị nào thuộc đời
thứ mấy của dòng
Lâm Tế.
Ngày nay ở nước ngoài,
có thiền sư Nhất Hạnh rất nổi tiếng không
những trong cộng-đồng người Việt ở
hải ngoại mà cả ở người ngoại quốc
nữa, thiền sư Nhất Hạnh có du học ở Mỹ,
vào thập niên 60 thiền sư lập dòng tu "Tiếp
Hiện". Ngài là giám đốc Trường Thanh Niên
Phụng Sự Xã Hội, thuộc viện Ðại Học
Vạn Hạnh, về địa
hạt văn học nghệ thuật Ngài
còn được biết
như một nhà văn lớn, những hoạt động
chống chiến tranh của Thiền sư và
cho một nền hòa bình ở Việt Nam đã được
nhà lãnh tụ da đen của
Mỹ, Martin Luther king, Jr. đề nghị giải Nobel về
Hoà Bình, thiền của
ngài thuộc Như Lai Thiền.
Ở trong nước có thiền
sư Thanh Từ, trước ngài ở trong đoàn Như
Lai sứ giả của Giáo Hội tăng già Nam Việt,
cùng với ngài Huyền Vi đi thuyết pháp khắp lục
tỉnh. Sau này thiền sư Thanh Từ chuyên giảng dạy
về thiền. Ngài lập ra những tu viện Chơn Không,
Thường Chiếu, Linh Chiếu... Thiền của Ngài
có khuynh hướng Tổ sư Thiền. Cả hai vị
thiền sư Nhất Hạnh và Thanh Từ, thập niên
50 và 60 đều có ở chùa Ấn Quang, và có am thất ở vùng Bảo
Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
2- Tịnh Ðộ Tông:
Là một tông phái lấy pháp môn niệm danh hiệu A Di
Ðà, để
cầu được vãng
sanh về Tây Phương Cực Lạc do Ðức Phật
A Di Ðà là Giáo Chủ, tông này lấy Kinh Vô Lượng Thọ,
Quán Vô Lượng Thọ, và Tiểu Bản A Di Ðà làm căn
bản.
Ngài Tuệ Viễn (334-416)
là đệ nhất Tổ Tịnh Ðộ Tông Trung Hoa, tại
Lư Sơn ngài dựng chùa Ðông Lâm và trụ trỉ
ròng rã 30 năm không hề xuống núi,
nơi đây ngài lập
ra hội Niệm Phật gọi là Bạch Liên Xã, có 123
người, trong đó có 18 vị gọi là "Ðông Lâm
Thập Bát Hiền".
Những vị Tổ Tịnh
Ðộ Tông Trung Hoa lần lượt được tôn vị
như sau: 1) Tuệ Viễn, 2) Thiện Ðạo, 3) Thừa
Viễn, 4) Phát Chiếu, 5) Thiếu Khương, 6) Diên Thọ,
7) Tỉnh Thường, 8) Châu Hoằng, 9) Ngẩu Ích, 10)
Hành Sách, 11) Tỉnh Am, 12) Triệt Ngộ, 13) Ấn Quang.
Ở miền Nam, có cư
sĩ Minh-Trí thành lập "Tịnh Ðộ Cư Sĩ Phật
Hội Việt Nam", tổ đình đặt
tại Minh Hưng Tự số 101 đường Lý Chiêu
Hoàng, quận 6, thành phố Sài gòn, xây cất năm 1934. Hội
này chọn phương pháp Phước Huệ song tu lấy
pháp môn niệm Phật làm căn bản, mỗi chùa thuộc
hội đều có một phòng thuốc Nam để
hốt thuốc chữa bệnh miển phí cho đồng
bào. Ngài Minh Trí
được tôn xưng là Giáo chủ Tịnh Ðộ Cư
Sỉ Phật Hội Việt Nam.
Ông Ðoàn Trung Còn, một dịch
giả Phật Học nổi tiếng trong nhiều thập
kỷ qua. Năm 1955, chư Hòa Thượng Chơn Mỹ trụ trì chùa Giác Hải Phú Lâm Chợ
Lớn, Hòa Thượng Chơn Minh, trụ trì chùa Giác Chơn, Chợ Lớn cùng ông Lý Trung
Hiếu, Đốc công, Sở Công Chánh Sàigòn đã thành lập Giáo Hội Tịnh Độ Tông Việt
Nam, trụ sở đặt tại chùa Giác Hải, sau dời về Liên Tông Tự,
145 đường Ðề
Thám, quận I, thành phố Sàigòn, Vào thập niên 60,
ông Đoàn Trung Còn xuất gia, trở
thành tu sĩ, pháp danh Hồng Tại, ông giữ chức vụ Trị
sự trưởng của Giáo
Hội nầy, ông đã viên tịch năm
1988.
Các chùa thuộc hệ phái
Non Bồng của Hòa Thượng Thích Thiện Phước,
ở tổ đình Linh Sơn Cổ Tự trên núi Dinh, gần
Thị Trấn Bà Rịa, cũng thuộc giáo hội Tịnh
Ðộ Tông này, Hòa Thượng Thiện Phước đã
viên tịch năm 1986, nay do ni sư Huệ Giác thống
lãnh Tăng, Ni của gần 50 ngôi chùa khắp Miền Nam
và Nam Trung Phần. Tông môn này thực hành rốt ráo theo
pháp môn Niệm Phật. Ngoài những thời công phu, chấp
tác, vào 11 giờ đêm đều dành riêng một thời
niệm Phật A Di Ðà. Riêng Nhất Nguyên Bửu Tự
ở Xã Vĩnh Phú (Lái Thiêu), huyện Thuận An, tỉnh
Sông Bé, hàng năm
đều có tổ chức Khóa Bá Nhật Niệm Phật
(100 ngày đêm liên tục niệm Phật).
Từ năm 1964 bắt
đầu tổ chức khóa Niệm Phật
này, khai kinh vào đêm mồng 7 tháng 8 và hoàn kinh vào đêm
16 rạng ngày 17 tháng 11, nhằm ngày vía Ðức A Di Ðà Phật.
Bất cứ ai cũng có thể đến
đây niệm Phật 1 thời (2 giờ), một buổi,
một ngày, nhiều ngày hay cả khóa, việc
ăn ở do chùa cung cấp, phật tử chỉ có
chuyên dùng thì giờ niệm Phật mà thôi. Mỗi năm
phật tử Biên Hòa, Bình Dương, Tân An, Mỹ Tho,
Gò Công, Bến Tre, Vĩnh Long, Long Xuyên... đều
về đây tham gia khóa Niệm Phật, người ta
thường nói "cửa chùa rộng mở", đặc
biệt chùa này không có
cánh cửa để đóng hay mở.
Quan Âm tu viện, ở phường
Bửu Hòa (gần Cầu Hang, Biên Hòa), thành phố Biên
Hòa, tỉnh Ðồng Nai, do ni sư Huệ Giác làm viện
chủ, Phật tử đi hành hương, viếng chùa,
nhằm giờ thọ trai, đều
được dọn một phần ăn như phần
thọ trai của chư Tăng Ni ở chùa, những năm
khó khăn về thực phẩm, chùa vẫn giữ
được nề nếp nầy, mặc dù Tăng Ni sáng
cháo, trưa cơm, chiều cháo.
Tịnh Độ
Tông ngày nay có lẽ hệ phái Non Bồng, là một hệ phái lớn nhất có nhiều chùa từ
miền Tây, miền Đông và miền Trung Việt Nam.
3- Mật Tông:
Là một tông phái đặc
biệt, do ba vị đại học giả của Mật
giáo là Thiện Vô Úy,
Kim Cương Trí, và Bất Không đem Mật giáo từ
Ấn Ðộ truyền sang Trung Hoa gọi là Mật Tông, y
vào giáo lý bí mật của Kinh Ðại Nhật, Kinh Kim Cương
Ðính gọi là Mật Tông hay Chơn Ngôn Tông.
Mật Tông có "tam mật",
nêu về ý thú thực tiễn tu hành, khi tu tới Tam Mật
Tương Ứng với nhau, tức là "Tức thân
thành Phật", nghĩa là tay thì kiết ấn "Thân
mật", miệng đọc
chú "Khẩu mật", ý trụ Tam ma địa "Ý
mật".
Trong
Nam, có Hòa Thượng Nhẫn Tế thế danh Nguyễn Văn Tạo sanh năm 1889 tại thôn An
Thánh (nay là thị trấn Lái Thiêu), tỉnh Bình Dương, hâm mộ đạo Phật từ nhỏ, năm
1904, được 16 tuổi ngài đến chùa Thiên Tôn trong vùng, quy y với Hòa Thượng Ấn
Thành - Từ Thiện, pháp danh Chơn Phổ. Sau khi học hành xong, Ngài đi làm việc
nhưng vì có bệnh nên xin nghỉ dưỡng bệnh.
Năm
1926, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa có giới đàn, Ngài đến xin thọ giới do Đầu đàn Hòa
Thượng Huệ Đăng truyền giới, Ngài được ban pháp danh Trừng Liễn, pháp hiệu Minh
Tịnh thuộc đời thứ 42 Thiên Thai Thiền Giáo Tông.
Năm
1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, Ngài xin thọ giới do Đầu dàn Hòa Thượng
Ngộ Định - Từ phong truyền giới, Ngài được ban pháp hiệu Nhẫn Tế, đệ tử nối pháp
đời thứ 40 dòng Lâm Tế Chúc Thánh chùa Thiên Tôn.
Ngày
17-4-1935, Ngài lên tàu đi sang Ấn độ, chiêm bái và học Phật, có sang Népal nhận
được Xá lợi Phật, rồi sang Tây Tạng ngày 28-6-1936, được yết kiến Nhiếp chánh
Quốc vương Tây Tạng, được Lạt ma Nhiếp chánh nhận là tu sĩ Tây Tạng, ban cho
pháp danh Thubten Osall Lama (Huệ Phát), ngài đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. Đến
ngày 29-10-1936, Ngày rời khỏi Tây Tạng, trở lại Ấn độ học hỏi thêm một thời
gian rồi mới trở về xứ. Ngài đặt chân lại am thất cũ của mình tại Bình Dương
ngày 30-6-1937.
Tại Phú
Cường có ngôi chùa Bửu Hương, Phật tử tại đây quy ngưỡng nên dâng cúng chùa cho
Ngài, Ngài đổi tên là Tây Tạng tự, từ đó Ngài tu và truyền bá Mật tông, nhưng vì
Phật giáo thời đó, nên Mật Tông của ngài Nhẫn Tế không lan rộng, không lập nên
Giáo Hội.
Hòa
thượng Nhẫn Tế viên tịch ngày 17-5-1951, thọ 63 tuổi đời, đắc 25 hạ lạp, là một
Lama Việt Nam đầu tiên, được chính Nhiếp chánh quốc vương Tây Tạng ấn chứng.
Ở Huế có Mật tông lưu truyền,
thập niên 60, Hội Phật Học Nam Việt có thỉnh
chư Tăng từ Huế vào chùa Xá Lợi làm lễ
Trai Ðàn Cứu Tế, những vị Tăng
nầy đã hành lễ
theo nghi thức Mật Tông Trung Hoa.
Thích Viên Ðức có dịch
một BỘ MẬT TÔNG gồm những sách : Hiển
Mật Viên Thông Thành Phật Tâm yếu, Kinh Ðại Thừa
Trang Nghiêm Bảo Vương, Kinh Chuẩn Ðề Ðà La Ni Hội
Thích (hay Kinh Thất Cu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết), Kinh Mạt Pháp Nhất Tự Ðà La Ni.
4- Phật giáo Nguyên Thủy:
Phái này do Hòa Thượng Hộ Tông lập ra, ngài tục
danh là Lê văn
Giảng, sanh năm 1893 tại làng Tân An,
quận Tân Châu, tỉnh Châu Ðốc, ngài có bằng Bác sĩ
thú y và lập nghiệp tại
Kampuchea. Năm 1914, được 21 tuổi, ngài lập
gia đình, nhưng đến năm 1925, được 32
tuổi, ngài phát tâm tìm đạo.
Sau khi tu tập qua nhiều pháp môn, đến năm 1936,
ngài quyét chí thực
hành Lục Ðộ Ba La Mật, có thì giờ thì dành cho thiền
định và có của cải là bố thí. Ngài bỏ tiền
ra xây trường học để dạy tiếng Pali, cất
một ngôi chùa ở Kampuchea để cho Việt kiều
có nơi thọ Bát quán trai.
Ðến năm
1939, theo lời thỉnh cầu của cư sĩ kỹ
sư Nguyễn văn Hiếu, Ngài Hộ
Tông về Tịnh Xá ở Gò Dưa, Thủ Ðức mở
đạo và năm 1949 ngài Hộ Tông
cùng ông Nguyẽn văn Hiếu
đứng ra xây chùa Kỳ Viên Tự, 610
đường Nguyễn Ðình Chiểu, quận 3, thành phố
Saigon. Năm 1950 Kỳ Viên Tự hoàn thành như ngày nay.
Chùa có tên là Jetavana Vihara Kỳ Viên Tự, sân trước
bên phải chùa, ngay góc
đường Nguyễn Ðình Chiểu,
Bàn Cờ có trồng cây Sa La, lấy gốc từ Ấn
Ðộ (Sa La Song Thọ, nơi đức
Thế Tôn nhập diệt), hoa trổ quanh năm, màu phơn
phớt tím như hoa sen nhỏ, trông rất đẹp, tỏa
hương thơm. Chánh điện ở trên
2 tầng tượng Phật có tôn trí Xá Lợi Phật
do Ðại Ðức Narada tặng.
Ông Nguyễn văn Hiếu
sanh năm 1896 tại làng
Tân An, tổng Ðịnh Bảo, hạt Cần Thơ, ông
đậu bằng Cao Ðẳng kỹ thuật Công Chánh của
trường Cao Ðẳng Công Chánh Hà Nội năm
1919, ông được bổ đi làm việc ở
Kampuchea. Năm 1925 đổi về làm
ở sở Hỏa Xa Saigon. Năm
1930, nhân đọc cuốn La Sagesse de Bouddha (Tuệ Giác
của Phật), ông phát tâm đem Phật giáo Nguyên
Thủy vào Việt Nam. Khởi đầu, ông cất "cốc"
ở Vườn Xoài, khu Trương Minh Giảng để
tập thiền, có số thân hữu tham gia đông, ông cất
một chòi lá lớn ở Tân Sơn Nhất, để
huynh đệ có nơi tu Thiền và luận đạo.
Năm 1938, ông dở chòi lá về Gò Dưa
dựng thành Tịnh Xá. Năm
1939, ông thỉnh đại đức Hộ Tông, Thiện
Luật, Huệ Nghiêm và một vị sư
Kampuchea về tịnh xá mở đạo,
đồng thời ông thỉnh đại đức Vua Sãi
Chuôn Nath và 30 vị sãi Kampuchea đến làm lễ Sima (Kiết
giới) đặt tên chùa là Batana Hamayarama (Bửu Quang Tự)
Ông thật là một vị Hộ Pháp, nhờ đó giáo
phái Nguyên Thủy Việt Nam được thành lập
và có nguồn gốc từ Kampuchea truyền sang.
Phật giáo Nguyên Thủy tức
là Giáo Phái Tiểu Thừa, kinh điển
theo Pali tạng, ăn mặn mỗi ngày một bữa
ăn vào giờ Ngọ (12
giờ trưa) cũng tụng kinh và ngồi thiền.
Năm 1958 Giáo Hội Phật
Giáo Nguyên Thủy được thành
lập, ngài Hộ Tông giữ chức Tăng
Thống đầu tiên, đến năm 1971, ngài đã
80 tuổi lại đãm nhiệm chức vụ
này thêm 2 nhiệm kỳ đến
năm 1974. Gíáo Hội Phật giáo Nguyên
Thủy và Hội Phật giáo Nguyên Thủy đều có
tham gia thành lập Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống
Nhất vào ngày 20 tháng 11 năm 1963 tại chùa Xá Lợi
Saigon.
5- Giáo Phái Khất Sĩ:
Giáo phái này do Tổ Sư Minh Ðăng Quang thành lập. Tổ
sư thế danh là Nguyễn Thành Ðạt tự Lý Huờn,
sanh ngày 26 tháng 9 năm Quý Hợi (nhằm 4-11-1923) tại
làng Phú Hậu, tổng Bình Phú, quận Tam Bình, tỉnh Vĩnh
Long. Con ông Nguyẽn Toàn Hiếu và bà Phạm Thị Ngà,
bà thọ thai 12 tháng mới sanh ra ngài, 9 tháng sau bà mất.
Năm 1937, được 14
tuổi, Ngài xin phép
phụ thân lên Phnom Pênh tầm sư học đạo. Ngài
tu học ở đây
đến năm 1941, được 4 năm rồi trở
về nhà lập gia đình để lo tròn
chữ hiếu, lúc ấy Ngài được
18 tuổi, năm sau vợ con đều mất vì bệnh.
Năm sau 1943, được 20 tuổi, Ngài quyết chí
đi tu, vân du vùng Thất Sơn tầm sư học đạo.
Mùa Xuân năm 1944, Ngài ở Hà Tiên tham thiền,
thâm nhập lý pháp. Ðến rằm tháng Bảy năm này
chủ chùa Linh Bửu Tự làng Phú Mỹ, tỉnh Mỹ
Tho, thỉnh ngài về trụ trì, Ngài khai đạo
từ đó.
Năm 1946, Ngài bắt đầu
dẫn đoàn Du Tăng đi hành đạo ở Mỹ
Tho, Gò Công, Long An, Thủ
Thừa, Bến Lức, Phú Lâm, Chợ Lớn, Bà Chiểu,
và các tỉnh miền Ðông. Năm
1953, một tịnh xá đầu tiên
được xây dựng tại Ðồng Ông Cộ (Bà
Chiểu, tỉnh Gia Ðịnh). Ðến mồng một tháng
hai năm Giáp Ngọ
(5-3-1954) từ Vĩnh Long du hóa sang Cần Thơ, đến
Bình Minh, địa phận của tướng Trần
văn Soái. Ngài bị
bắt cùng với một chú tiểu, chú tiểu về
sau được thả ra, còn Tổ sư mất tích từ
đó.
Tổ sư Minh Ðăng
Quang đã dung hợp Nam
và Bắc Tông, định ra hạnh Sa Môn Khất Sĩ:
Nhất biểu thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Dục cùng sanh tử thọ,
Khuất hóa độ xuân
thu.
Có nghĩa:
Một bầu cơm ngàn nhà,
Riêng mình vạn dậm xa.
Muốn thoát vòng sống chết,
Xin hóa tháng ngày qua.
Theo tôn chỉ của giáo
phái này, người Du Tăng khất sĩ: Với bộ
áo vàng choàng một bên, đầu
đội trời, chân đạp đất, trong người
không giữ tiền bạc, tay bưng bỉnh bát, nhà sư
đi khắp nẽo đường đất nước
hành đạo, hóa duyên.
Năm 1965, bên Tăng chúng
thành lập năm đoàn du tăng so Trưởng Lão
Giác Tánh và các Thượng Tọa Giác Chánh, Giác An, Giác
Nhơn, Giác Lý làm trưởng đoàn. Bên Ni chúng cũng
có 5 đoàn do quý Ni Cô Huỳnh Liên, Ngân Liên, Trí Liên, Diệu
Liên, Tạng Liên làm trưởng đoàn. Các đoàn
đã du hóa khắp Nam phần và Miền duyên hải Trung
phần. Năm 1966, Giáo Hội
tăng Gìa Khất Sĩ Việt Nam được thành
lập, có pháp viện Minh Ðăng Quang ở ngã ba Cát Lái,
xa lộ Biên Hòa. Hội đồng lãnh đạo trung
ương gồm Viện Chỉ Ðạo do Thượng Tọa
Giác Nhiên làm Tổng Trị Sự. Gần đây
các giáo đoàn không
còn đi khất thực nữa vì Cộng Sản không cho
phép.
Giáo phái khất sĩ mặc
y và du hóa như Nam Tông. Tăng
Ni trường chay, kinh điển viết theo lối
văn vần. Sau 10 năm hành đạo, tổ sư Minh
Ðăng Quang lưu lại giáo lý gồm có: Bồ Tát Giáo,
và bộ sách CHÂN LÝ. Ngài
dạy Tăng chúng: Sống là sống chung, biết là học
chung, linh là tu chung.
Ngày nay, vì các ngài Giác Chánh
tuổi cao nẻn Thượng Tọa Giác Toàn điều
hành giáo hội khất sĩ. Trụ sở tại Trung Tâm
Tịnh Xá Gia Ðịnh. Có khoảng 300 ngôi tịnh xá khắp
miền Nam, ở hải ngoại Hòa Thượng Giác
Nhiên là Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Gìa Khất Sĩ Thế
Giới, có trên 20 tịnh xá thuộc giáo phái này ở Hoa
Kỳ.
6- Phật Giáo Hòa Hảo: Tông
phái này do Ðức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng, Ngài tên thật
là Huỳnh Phú Sổ, sinh năm Kỷ Mùi 1919, tại làng
Hòa Hảo, quận Tân Châu, Tỉnh Châu Ðốc. Thân sinh
ngài là ông Huỳnh Công Bộ. Thuở thiếu thời,
ngài học đến bậc tiểu học (ngày trước)
ở trường tiểu học Tân Châu, trước Ngài
từng vân du vùng Thất Sơn, đến ngày 19-5- năm
Kỷ Mão (nhằm 5-7-1939), Huỳnh Phú Sổ khai đạo
tại làng Hòa Hảo, thuở đó
tín đồ tôn xưng là
Thầy hay Ðức Thầy, Ngài có biệt hiệu là Hồng
Vân Cư Sĩ và Hòa Hảo. Sấm giảng Thi Văn toàn
bộ của ngài dày 500 trang.
Phật giáo Hòa Hảo (PGHH)
có truyền thống của Bửu Sơn Kỳ
Hương, truyền bá phật giáo trong giới nông dân,
tu tại gia, có tôn chỉ "Học Phật, Tu Nhân",
thực hành tứ ân: 1) Ân Tổ tiên cha mẹ 2) Ân Ðất
Nước 3) Ân Tam Bảo 4) Ân Ðồng Bào Nhân loại.
Triệt để bài trừ mê tính như đốt vàng
mã, thầy bùa, thầy pháp...không cất chùa mới, chỉ
cất Ðộc Giảng đường
để ngày rằm, mồng một, tín đồ đọc
Sấm giảng, đó là những lời răn dạy,
khuyến tu của Ngài theo thể văn vần.
Tín đồ PGHH
cũng quy y tam bảo, giữ ngũ giới, ăn tứ
trai, thập trai và trường trai, đàn ông để búi
tóc và râu, trong nhà có
một bàn thờ Cửu Huyền thất tổ, bên trên
là tấm trần điều,
tượng trưng cho tịnh độ, ngoài
sân có bàn thờ thông thiên phải lạy bốn phương,
bài nguyện, Ðức Thầy đặt
theo thể văn vần. Cúng lạy ở bàn
thờ trong nhà thì khởi đầu cầm hương xá
3 xá, quỳ xuống chấp tay ngay trán nguyện:
Cúi kính dưng hương
trước Cửu Huyền,
Cầu trẻn Thất Tổ
chứng lòng thiềng.
Con nay tỉnh ngộ quy y Phật,
Chí dốc tu hành đạo
phước duyên.
Cắm hương rồi
đứng ngay thẳng, chắp tay vào ngực đọc
tiếp:
Cúi đầu lạy tạ
Tổ Tông,
Báo ơn sanh dưỡng dày
công nhọc nhằn.
Rày con xin giữ đạo hằng,
Tu cầu Tông Tổ siêu thăng
Phật đài.
Nguyện làm cho đẹp mặt
mày,
Thoát nơi khổ hải Liên
đài được lẻn.
Mong nhờ Ðức Cả bề
trên,
Ðộ con yên ổn vững
bền cội tu. (Lạy 4 lạy)
Thời gian hành đạo,
Ðức Thầy đi
khắp miền Hậu Giang giảng đạo, tín đồ
đi nghe giảng đông hàng nghìn, cho nên
thường tổ chức nơi công cộng như ở
nhà lồng chợ hay nhà Tín đồ có sân rộng, thực
dân Pháp sợ ảnh hưởng của Ngài, năm
1940, đem an trí Ngài trong nhà thương
Chợ Quán, giữa năm
1941 đưa Ngài đi biệt xứ ở Bạc Liêu,
đến cuối năm 1942 lại đưa Ngài
trở về Saigon. Vào ngày 21-9-1946, Ngài lập đảng
Việt Nam Dân Chủ Xã Hội, gọi tắt là Việt
Nam Dân Xã Ðảng. Ngài tham gia Uỷ ban Hành Chánh Nam Bộ,
vào mật khu ở Miền Ðông với lực lượng
Bình Xuyên của Bảy Viễn.
Ngài đã đi dự Hội
Nghị với Việt Minh (Nay là cộng sản Việt
Nam) do Bửu Vinh mời, họp tại làng Tạ Phú, Ðốc
Vàng, tỉnh Long Xuyên, ngay trong phiên họp, họ đã tắt
đèn và nổ súng, cận vệ của Ngài chạy
thoát về báo lại, ngay đêm đó, có thủ bút của
Ngài viết, gửi cho các Tư lệnh Lực lượng
PGHH:
Ông Trần
Văn Soái và Ông Nguyển
Giác Ngộ;
Tôi vừa hội hiệp với
ông Bửu Vĩnh, bỗng có sự biến cố xảy
ra, tôi và ông Vĩnh xuýt chết, chưa rõ nguyên nhân, còn
điều tra, trong mấy anh em phòng vệ không biét chết
hay chạy đi, nếu có ai về báo cáo rằng tôi bị
bắt hay mưu sát thì các ông đừng náo
động.
Cấm chỉ đồn
đãi, cấm chỉ kéo quân đi tiếp cứu, hảy
đóng quân y tại chỗ.
Sáng ngày, tôi sẽ cùng ông Bửu
Vĩnh điều tra kỹ lưỡng rồi sẽ về
sau.
Phải triệt để tuân
lịnh.
Ngày 16-4-1947 : 9 giờ 15 đêm
Ký tên: S
Từ đó người ta
không có tin tức về Ngài,
có lẽ Cộng Sản đã hảm hại
Ngài sau khi đã viết lá thư đẻm
đó. Ngài mới có
27 tuổi. Ngài chẳng những là một vị giáo chủ
PGHH mà còn là một lãnh tụ quốc gia chân chính, tiến
bộ, nhiệt tâm yêu nước.
Ðức Huỳnh Giáo Chủ
tổ chức PGHH có quy củ từ thôn ấp đến
làng, quận, tỉnh và trên hết là Ban Trị Sự
Trung Ương đặt trụ sở tại Tổ Ðình
An Hòa Tự nơi Thánh Ðịa Hòa Hảo.
Ðảng Việt Nam Dân Chủ
Xã Hội, có một lực lượng quân sự, là một
tổ chức kháng chiến chống Pháp, chống chế
độ
độc tài khủng bố của Cộng
Sản Việt Minh, lực lượng này gồm quân
đội củ Tướng
Trần Văn Soái tự Năm Lửa, Tổng Tư Lịnh
Lực Lượng PG Hoà Hảo, Tổng
Hành Dinh ở Cái Vồn, Cần Thơ. Tướng Lâm
Thành Nguyên tự Hai Ngoán, Phó Tổng Tư Lệnh, tổng
hành dinh ở Cái Dầu, Châu Ðốc. Tướng Nguyễn
Giác Ngộ, tự Nguyễn Trung Trực, tổng hành dinh
ở Chợ Mới, Long Xuyên. Tướng Lê Quang Vinh tự
Ba Cụt, tổng hành dinh ở Thốt Nốt, Long Xuyên.
Các lực lượng võ trang trên, năm
1954 đều về hợp tác với chánh phủ Ngô Ðình
Diệm. Riẻng tướng Lê Quang Vinh sau khi Hội Nghị
với đại sứ
Nguyễn Ngọc Thơ vùng
Ðồng Tháp Mười trở về, đã bị một
đồn Bảo An ở Hòa Bình Thạnh (Chắc Cà Ðao)
bắt, giải về nhà lao Cần Thơ, ra Tòa Án binh, bị
xử tử hình tại sân vận động Cần
Thơ.
PGHH dưới chế độ
Ngô Ðình Diệm cũng
bị đàn áp như các tôn giáo khác,
phải đợi sau cuộc tranh đấu của Phật
Giáo năm 1963 thành công, trung tướng
Nguyển Giác Ngộ là Ủy viên đặc trách tôn giáo
trong Hội Ðồng tướng lãnh, từ đó PGHH có cơ
hội phục hồi tổ chức. Ngày 18-11-1964, Hội
Ðồng Trị Sự trung ương Giáo Hội PGHH
được thành lập. Theo kiểm kê năm 1965, PGHH
chỉ có một ít chùa, có 390 Ðộc giảng đường,
tín đồ chừng 4 triệu ở khắp các tỉnh
Nam Phần, đặc biệt các tỉnh có đông đảo
tín đồ là Châu
Ðốc, Long Xuyên, Sa Ðéc, Rạch Gía, Cần Thơ,
Vĩnh Long.
III.- Kết Luận:
Hiểu được
những tông phái chính của Phật Giáo Việt Nam hiện
nay, giúp chúng ta biết rõ nguồn gốc, pháp môn tu tập,
để chọn lựa cho mình tông phái thích hợp, nhờ
đó sự tu học ngày càng tinh tấn.
Sách tham khảo:
- THÍCH THANH KIỀM Lịch
Sử Phật Giáo Trung Quốc, Vạn Hạnh ,Saigon,
1964.
- Linh Sơn Phật học nghiên cứu Hội, Ðặc
san, Phật Học Tùng Thơ, Saigon, 1958.
- The Quest, The Theosophical Publishing house, Wheaton, IL, Winter 1991.
- VIETNAM NEWS, Nguyệt san số 7, Việt Nam Publishing
Inc. Atlanta, GA, 1994.
- Ðức Huỳnh giáo chủ,
Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ,
vppghhHn, Ấ n tống lần 2, năm 1984.