CHIA GIA TÀI
Thuở ấy, Phật đang ở nơi tinh xá trong khu vườn Trúc Lâm, gần thành Vương Xá.
Có bốn anh em con nhà quý phái, cha mẹ vừa mất, cùng nhau tranh chia gia tài, mỗi người một ý không ai chịu ai.
Bấy giờ, họ gặp được trưởng lão Xá-lỵ-phất, lấy làm mừng lắm, thưa rằng:
“Anh em chúng tôi xin nhờ đại đức phân xử chuyện này, anh em tôi nguyện
sẽ nghe theo lời đại đức mà không tranh cãi nữa.”
Trưởng lão Xá-lỵ-phất nhìn qua biết là 4 anh em này có thể độ vào cửa
Phật, mới đáp rằng: “Tôi còn có thầy là đức Phật, là bậc cao quý nhất
trong tam giới. Các anh em có thể theo tôi đến hầu ngài, thế nào cũng
được một lời chỉ dạy thoả lòng.”
Bốn anh em vâng lời, theo Xá-lỵ-phất đến tinh xá trong vườn Trúc Lâm để
bái kiến đức Phật. Phật nhìn thấy bọn họ từ xa thì mỉm cười, trên đỉnh
đầu phóng ra những đạo hào quang năm sắc chói sáng chung quanh. Ấy là
điềm lành ngài sắp hóa độ cho những kẻ có căn duyên với Phật pháp. Bốn
anh em đến lạy chào Phật và bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn, bốn anh em
chúng con khờ dại quá, gia tài cha mẹ để lại không biết chia nhau thế
nào là hợp lý, xin ngài ban cho một lời để anh em chúng con thôi không
tranh nhau nữa.”
Phật dạy rằng: “Các người hãy lắng tai nghe câu chuyện này, rồi sau đó ta sẽ phân xử chuyện của các ngươi.”
Rồi đức Phật kể cho họ nghe câu chuyện sau đây:
Thuở xưa, có một vị vua tên là Qui Liêu. Vua có bệnh nặng, ngự y xem
bệnh bảo rằng nếu được sữa sư tử cái hoà với thuốc cho vua uống mới hết
bệnh. Vua liền truyền rao khắp nước rằng: “Ai có thể tìm được sữa sư tử
cái đem đến cho vua, vua sẽ chia phân nửa giang san và gả con gái út
cho.”
Có một người kia nghĩ là mình có thể lấy được sữa của sư tử cái, liền
lên đường đi tìm. Người ấy vốn rất khôn ngoan, đa mưu túc trí. Ban đầu,
anh ta vào tận rừng sâu, dò tìm cho được nơi sư tử thường hay về nghỉ.
Kế đó, anh mới giết một con cừu, đem theo vài ché rượu ngon vào núi. Rồi
anh chờ cho đến lúc sư tử đã đi khỏi, liền mang thịt cừu với rượu đặt
vào trong hang.
Sư tử về, thấy thịt béo rượu ngon mới ăn uống no say và lăn ra ngủ li bì. Anh ta liền vào hang vắt lấy được sữa và ra về.
Đến chiều tối, đường về vẫn còn rất xa, anh ta mới ghé vào một làng kia
mà nghỉ đêm. Lúc ấy, có một vị A-la-hán đi du phương cũng dừng nghỉ
trong làng đó, tình cờ nằm gần anh ta. Đi đường mệt mỏi, anh ta đặt lưng
xuống thì ngủ mê man. Vị A-la-hán khi ấy nhờ có thần thông quán chiếu
nên thấy được trong khi anh ta đang say ngủ thì các bộ phận trong cơ thể
anh ta bắt đầu tranh cãi nhau về công trạng vừa rồi, bộ phận nào cũng
giành phần công lớn về mình.
Chân nói trước rằng: “Nhờ ta nên mới vào núi mà lấy được sữa sư tử.” Tay
cãi lại rằng: “Không có ta, làm sao mà vắt được sữa? Ấy chẳng phải là
công lớn phải thuộc về ta hay sao?” Con mắt nói: “Nhờ có ta mới nhìn
thấy được sư tử, công ta mới đáng là hơn hết.” Lỗ tai lại nói: “Nếu
không có ta thì làm sao nghe được lệnh vua để đi lấy sữa? Quả là công
đầu phải về ta.” Lưỡi nói: “Các anh cứ khoe tài mà đoạt công tôi đi.
Thôi để ngày mai các anh sẽ thấy, sống chết do ai định đoạt thì biết.”
Hôm sau, anh chàng đem sữa về đến kinh đô, vào tâu với vua rằng: “Tôi đã
vắt được sữa sư tử rồi, còn để ngoài thành chờ lệnh bệ hạ.” Vua phán:
“Đem vào cho trẫm xem có thật vậy chăng?”
Anh ta mang sữa vào. Vua vừa nếm sữa, thì cái lưỡi anh ta la lên rằng:
“Đây không phải sữa sư tử, mà là sữa lừa.” Vua nghe lời ấy, nổi trận lôi
đình, hét lớn rằng: “Ngươi nói với ta là sữa sư tử, sao dám đem sữa lừa
mà gạt ta?”
Vua liền truyền lệnh lôi ra chém ngay. Nhưng lúc ấy, vị A-la-hán ngủ gần
với người hôm trước biết rõ mọi chuyện, ngài dùng thần thông hiện ra
trước mặt vua, nói rằng: “Đây đúng thật là sữa sư tử. Tối hôm qua, bần
tăng có nghỉ chung một chỗ với người này, được nghe các bộ phận trong cơ
thể của người tranh nhau công đầu trong việc lấy sữa sư tử, ai cũng
giành là phần của mình. Sau rốt, bần tăng có nghe cái lưỡi giận thốt lên
rằng: ‘Thôi để ngày mai các anh sẽ thấy, sống chết do ai định đoạt thì
biết.’ Bởi vậy cho nên bây giờ cái lưỡi nó muốn giành phần hơn mà hại
chết các bộ phận khác. Bệ hạ cứ đem sữa mà pha với thuốc, nếu uống hết
bệnh thì có thể biết chắc là sữa sư tử.” Vua tin lời vị A-la-hán, liền
lấy sữa hòa với thuốc mà uống, quả nhiên khỏi bệnh. Vua giữ lời hứa, gả
công chúa út cho người tìm được sữa và chia cho người phân nửa giang
san.
Bấy giờ, vị A-la-hán mới bảo vua rằng: “Trong cơ thể của một người, mà
các bộ phận còn tranh công nhau như vậy, huống gì là cả muôn người, ai
cũng muốn cũng đoạt phần hơn về mình thì khổ biết bao!.”
Người kia được thoát chết, trong lòng vui mừng khôn xiết, liền phát tâm
từ bỏ cuộc sống thế tục, không màng đến phần thưởng to tát mà vua vừa
ban cho, chỉ theo xin vị A-la-hán nhận mình làm đệ tử. Nhờ thông minh,
sớm trừ dứt mọi dục vọng, nên không bao lâu anh ta thông hiểu đạo lý và
cũng chứng quả A-la-hán. Nhà vua cũng nhân dịp ấy mà hiểu được đạo lý
của Phật, lấy làm vui mừng mà quy y Tam bảo, thọ trì Ngũ giới và tu hành
theo Thập thiện đạo.
Bốn anh em nghe đức Phật kể xong câu chuyện ấy liền tỉnh ngộ, không còn
nghĩ đến chuyện tranh nhau gia tài nữa. Họ xin được xuất gia tu hành
theo Phật. Đức Phật khen rằng: “Lành thay! Lành thay!” Rồi ngài đưa tay
sờ vào đầu họ, tức thì râu tóc đầu rụng sạch và áo cà-sa hiện ra trên
mình họ. Lòng tham muốn đã dứt, không bao lâu cả bốn người bọn họ đều
chứng quả A-la-hán.
Đại đức A-nan khi ấy thưa hỏi Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, bốn người ấy
có nhân duyên gì mà mới vừa nhập hàng tỳ-kheo chưa bao lâu đã thông
hiểu đạo lý và chứng quả A-la-hán?”
Phật dạy rằng : “Thuở xưa, khi tôn giả Xá-lỵ-phất là một tỳ-kheo thì bọn
họ là bốn thương gia, cùng nhau mua một bộ áo mà cúng dường cho vị tỳ
kheo ấy. Tôn giả Xá-lỵ-phất thuở ấy có lời nguyện độ cho họ được giải
thoát. Vì thế nên ngày nay họ được Xá-lỵ-phất dẫn dắt đến đây và được
giải thoát.”