NAI CỨU NGƯỜI
Đối với những bậc đại từ bi, sự đau khổ của người khác cũng chính
là đau khổ của mình. Dù không tự mình gánh chịu, nhưng nhìn thấy người
khác đau khổ cũng sinh tâm thương xót và cảm thấy như chính mình đang
đau khổ.
Vào thời đức Phật Thích-ca còn tu đạo Bồ Tát, có một câu chuyện như thế này:
Trong một cánh rừng sâu kia, có cả trăm ngàn thứ cây và dây leo mọc dày
khít với nhau, chằng chịt qua lại. Trong đó có cả trăm ngàn loài thú
vật, như: nai, mểnh, mang, heo, bò, voi, trăn, beo, cọp, chó sói, sư tử,
gấu... Các loài thú qua lại sống chung tự do trong rừng, không hề có
bóng dáng con người. Thật là một cảnh thong dong, tự tại, sung sướng vô
ngần đối với muông thú.
Thuở ấy, có một con nai chúa tuyệt đẹp, lông mịn như tơ và sáng như vàng
ròng, trên thân mình nai là những đường sọc có nhiều hạt châu đủ màu
chói sáng. Đôi mắt hiền hậu và trong trẻo của nai sáng lấp lánh như hai
hạt kim cương. Sừng và móng của nai cũng là những món châu báu lay động.
Nai chúa chính là hiện thân của Bồ Tát để giáo hóa cứu độ chúng sanh
đang mang thân cầm thú.
Nai chúa tự biết thân thể của mình dễ gợi lòng tham của loài người, và
cái gọi là tình thương của loài người thì mong manh lắm. Bởi vậy nai xa
lánh vào tận rừng sâu, thích ở nơi ấy chứ không để cho ai trông thấy.
Nai chúa lanh lợi và khôn ngoan lắm. Nhiều người thợ săn đã từng tìm đủ
cách như giăng lưới, đặt bẫy, đào hố... song nai luôn biết được và tránh
né một cách tài tình.
Có một đoàn thú đi theo nai chúa, nghe theo lời chỉ dạy của nai như một
ông thầy và oai quyền của nai chúa đối với bầy thú như một ông cha.
Một hôm, nai chúa đang ở trong rừng sâu. Gần đó có một con suối lớn,
nước chảy rất xiết vì vừa qua những trận mưa lớn. Bất chợt nai nghe có
tiếng kêu cứu rất thảm thiết của một người bị dòng nước cuốn: “Cứu tôi
với! Cứu tôi với! Có ai không, cứu tôi với!”
Tiếng kêu cứu làm cho tấm lòng Bồ Tát nai chúa phải xúc động. Ngài thốt
ra tiếng người và lớn tiếng trấn an người bị nạn rằng: “Đừng sợ! Đừng
sợ!” Rồi ngài nhanh chóng nhảy ra khỏi rừng sâu, tìm đến bên bờ suối.
Ngài nhìn thấy một người đang chơi vơi giữa giòng.
Tâm từ bi chuyển động, ngài không nghĩ gì đến thân mạng mình có thể gặp
hiểm nguy, chỉ một lòng nghĩ đến việc cứu vớt người kia. Ngài lội nhanh
xuống dòng nước xiết, nhanh chóng bơi ra đến giữa dòng, đến bên người bị
nạn và gọi lớn: “Ông hãy bình tĩnh, cứ nương dựa vào thân tôi, tôi sẽ
dìu ông vào bờ.” Nhưng nạn nhân lúc ấy đang run rẩy, mất cả bình tĩnh
tĩnh, không làm theo lời ngài mà vừa bám được đến gần đã leo hẳn lên
lưng ngài. Nước chảy rất xiết, cõng thân người rất nặng, nhưng ngài có
tâm từ bi với sự dũng mãnh của một tâm hồn cao thượng hết lòng cứu
người, nên cố sức lội được vào bờ.
Khi đưa được nạn nhân vào bờ, ngài mừng lắm, quên hết cả nỗi mệt mỏi và
đau đớn. Rồi ngài đem hơi ấm của thân mình mà ấp ủ cho nạn nhân qua cơn
rét lạnh. Khi người ấy đã tỉnh táo và hồi phục, ngài mới chỉ đường cặn
kẽ cho anh ta ra khỏi rừng.
Dù là thân quyến, anh em hay bằng hữu cũng chưa hẳn đã có được cử chỉ xả
thân cứu người như vậy. Hành vi cứu giúp của ngài làm cho người kia hết
sức cảm động. Khi đã tỉnh hồn sau cơn khiếp sợ, người kia mới nhận ra
thân thể của ngài rực rỡ và sáng đẹp vô song, Anh ta sửng sốt ngắm nhìn
và kính nể lắm, liền quỳ xuống lạy và thưa rằng: “Hôm nay ngài xả thân
cứu tôi sống sót. Việc làm này, cho dù là với những người thương yêu
nhau từ thuở nhỏ, với những người bạn thân hay bà con thân thuộc, cũng
không dễ gì làm được. Giờ đây, mạng sống này là của ngài. Nếu ngài có
việc cần đến nó, tôi xin vui lòng dâng hiến nó cho ngài. Nếu như ngài có
bất cứ điều gì cần đến xin cho biết, tôi nguyện đem thân mạng này mà
phụng sự cho ngài.”
Nai chúa khen rằng: “Đối với một người biết giữ theo đạo lý, sự biết ơn
là việc bình thường, không ai lấy làm lạ. Song đối với cõi trần thế với
những sự bại hoại thường xảy ra, thì sự biết ơn đã trở nên một đức tính
hiếm có. Nay tôi dặn ông điều này, nếu như ông nhớ ơn tôi, xin ông đừng
kể chuyện này ra cho bất cứ ai biết. Vì thân hình tốt đẹp như thân hình
tôi đây vốn là miếng mồi ngon cho loài người thèm muốn, mà cái lòng
thương xót của con người lại yếu ớt lắm, một khi lòng tham đã dấy lên
thì họ dễ dàng quên hết sự liêm sỉ. Ông giữ kín được chuyện này tức là
giữ gìn được mạng sống cho tôi. Xin ông hãy nhớ lời tôi dặn.”
Người kia hứa sẽ nhớ lời và không nói ra cho ai biết. Sau đó, anh ta quỳ
lạy, đi nhiễu vòng quanh nai chúa một cách cung kính rồi mới từ biệt
trở về nhà.
Thuở ấy, bà hoàng hậu trong xứ ấy thường nằm mộng thấy được những điều
có thật. Dù cho giấc mộng của bà có lạ lùng đến đâu nhưng cũng thường
ứng nghiệm thành sự thật. Rồi một hôm, bà ngủ mê và mộng thấy một con
nai chúa ngự trên một cái ngai, thân hình đẹp đẽ vô cùng, toàn thân có
những hạt ngọc lớn nhỏ đủ màu chói sáng, lại có triều thần chầu theo, và
nai chúa nói được tiếng người mà giảng dạy đạo pháp. Bà lấy làm xao
xuyến, ngạc nhiên. Ngay lúc ấy thì có tiếng trống trong thành làm bà
thức giấc. Bà liền vào cung đến gần đức vua, được vua ân cần đón tiếp và
yêu mến.
Bà đem giấc mộng lạ thuật lại và tâu với vua rằng: “Tâu bệ hạ, trong
cung điện của bệ hạ đã có đủ các thứ châu báu, vật quý trong thiên hạ,
nhưng chưa từng có vật nào quý báu bằng con nai chúa ấy, thân hình nó có
đầy châu ngọc quý giá tự nhiên. Nay bệ hạ nên cho người cố sức bắt con
nai chúa ấy về. Đó mới thật là báu vật có một không hai trong thiên hạ.”
Tất nhiên là vua tin theo lời hoàng hậu. Ngài nghe theo lời tâu của bà,
một là để đẹp lòng bà, hai là vì lòng tham con nai quý. Vua truyền lệnh
cho các tay thợ săn trong khắp nước, bảo phải tìm cho bằng được con nai
ấy. Và mỗi ngày, tại kinh thành người ta truyền rao như thế này:
“Chuyện cổ tích có ghi chép về một con nai màu vàng ròng, khắp mình có
cả trăm hạt châu chiếu sáng. Có nhiều người đã trông thấy nó. Vậy ai đem
mang nộp hoặc chỉ đường cho vua bắt nó thì được phong thưởng một thôn
ấp phồn thạnh mà cai trị cùng với mười người mỹ nữ.”
Người được nai chúa cứu mạng ngày trước nay đang sống ở kinh thành. Hằng
ngày lắng tai nghe rõ lời truyền rao ấy, người nghĩ tới sự nghèo khó
của mình thì buồn rầu chán ngán, bỗng nảy ra ý xấu. Nhưng người cũng
nghĩ tới ơn cứu mạng của nai chúa và lời dặn dò khi chia tay. Một đàng
là lòng tham đối với sự vinh hoa phú quý, một đàng là sự biết ơn đối với
kẻ đã cứu mạng mình. Trong lòng anh ta ray rứt, dằn vặt không thôi, nửa
muốn giữ phận nghèo mà làm người tốt, nửa lại muốn bôi mặt một phen để
hưởng lấy sự giàu có, vinh hoa.
Anh ta ngày nào cũng suy nghĩ: “Ta biết làm sao bây giờ? Ta nên giữ lấy
đạo đức, hay nên chộp lấy cơ hội này để được giàu sang? Ta nên trọn
nghĩa với người ơn hay nên cứu lấy sự nghèo khó của gia đình? Ta nên giữ
làm người lương thiện hay nên theo sự ứng xử của kẻ thế tục tầm thường?
Ta nên chọn sự giàu sang sung sướng hay chọn theo gương sáng của những
bậc hiền lương? Ta nên vì sự sung sướng trong hiện tại hay nên nghĩ đến
quả báo xấu xa phải gánh chịu đời sau?”
Rồi sự tham lam dần dần chiếm lấy tâm ý của người, nó xúi giục người
nghĩ rằng: “Hay là ta cứ chọn lấy sự giàu sang. Được giàu có rồi, ta sẽ
nuôi nấng cha mẹ, bà con, thân quyến... Ta sẽ bố thí và cúng đường, sẽ
lo làm những việc phước thiện để có công đức cho tương lai.”
Rồi người cho rằng ý tưởng ấy là thích hợp với mình. Người bỏ qua việc
nhớ tưởng đến ơn cứu mạng ngày trước, bèn đến hoàng cung xin được vào
gặp đức vua. Người tâu rằng: “Muôn tâu bệ hạ, tôi biết con nai quý và
chỗ ở của nó. Bệ hạ cứ cho người đi theo tôi. Tôi sẽ chỉ ra chỗ ở của
nó.”
Vua nghe lời ấy mừng lắm, đáp rằng: “Khanh hãy dẫn đường cho ta. Ta sẽ
đích thân đi bắt nó.” Rồi vua mặc quần áo đi săn, có cả một đoàn quân
theo hộ tống. Ngài ngự ra khỏi kinh thành và đi theo người kia mà đi đến
cánh rừng nơi nai chúa sống. Ngài cho quân lính vây bủa khắp chung
quanh cánh rừng. Rồi ngài tự tay cầm cung tên, chọn những tay thiện xạ
và dũng sĩ khỏe mạnh theo hầu, theo chân người chỉ đường mà tiến sâu vào
rừng. Đến giữa rừng, người kia từ xa nhìn thấy nai chúa đang nghỉ ngơi
thong thả trên bãi cỏ, bèn chỉ cho vua: “Tâu bệ hạ, con nai ở kia kìa!
Bệ hạ hãy nhìn xem cho kỹ!” Ngay khi người ấy đưa tay ra mà chỉ con nai,
thì bàn tay ấy bỗng đứt ngang nơi cổ tay mà rơi rụng xuống như bị một
lưỡi gươm sắc chém ngang qua. Đối với hạng người vô ơn bạc nghĩa, lấy
oán trả ơn như vậy, thì quả báo đã đến ngay trong hiện tại.
Khi ấy, vua nhìn thấy được nai chúa. Trong đám rừng xanh, thân thể của
nai hiện ra với những hạt châu sáng rực, như hào quang sáng đẹp tỏa ra
chung quanh làm cho ai nhìn thấy cũng bị lôi cuốn. Vua lấy làm thích
thú, muốn mau chóng bắt được nai chúa nên liền giương cung lên và đến
gần hơn để bắn…
Khi ấy, nai chúa bỗng nghe tiếng reo hò dậy lên khắp bốn phương tám
hướng, liền giật mình tự biết rằng: “Ta đã bị bao vây khắp hết mọi ngã
rồi!” Ngài nhìn thấy nhà vua đang tiến đến gần mà bắn mình. Khi ấy, ngài
vẫn bình tĩnh, thốt ra tiếng người một cách rõ ràng và nói với vua
rằng: “Đại vương, xin hãy tạm dừng tay đừng bắn. Tôi có điều muốn biết,
xin ngài giải thích cho tôi. Từ xưa nay tôi ẩn cư chốn này, xa cách hẳn
với người đời, làm sao ngài có thể biết được chỗ tôi sống mà tìm đến
đây. Ai đã chỉ đường cho ngài?”
Vua nghe nai thốt ra tiếng người thì lấy làm kinh ngạc, vội dừng tay hạ
cây cung xuống. Rồi khi nghe rõ câu hỏi của nai chúa, ông liền hất tay
chỉ vào tên bất nghĩa: “Chính là người đó đã chỉ đường cho ta.” Nai chúa
nhìn biết người kia, liền nói rằng: “Người ơi, nay người làm chuyện bất
nghĩa này chính là tự hại lấy mình, người có biết không?”
Vua nghe câu ấy thì lấy làm lạ, liền hỏi nai rằng: “Ngài quở trách đó là
về chuyện gì? Tôi nghe ngài nói ra được tiếng người, lòng tôi kinh ngạc
lắm. Hỡi thú linh, ngài nói đó là nhằm vào ai? Là người, là thú hay là
chim?”
Nai chúa đáp: “Trước đây người này sắp chết đuối, nhờ tôi ra sức cứu
sống. Nay tôi vì anh ta mà bị hại. Nhưng việc ác này của anh ta vốn là
tự hại lấy mình, chỉ vì tham lam, ngu si nên không biết đó thôi.”
Vua nghe nói mới hiểu ra sự tình, trong lòng khinh bỉ, đưa mắt nhìn
người kia một cách gắt gao, vẻ mặt chứa đầy sự hăm dọa. Vua xẳng giọng
phán hỏi: “Có phải trước đây ngươi được nai cứu sống hay không?”
Người kia vừa sợ, vừa xấu hổ, mồ hôi đổ như tắm, mặt tái xanh, ấp úng đáp rằng: “Dạ... phải...”
Vua quát to: “Thật đáng xấu hổ quá!”
Rồi vua giương cung định bắn chết anh ta. Song nai chúa nhìn thấy kịp,
động lòng từ bi liền chạy đến đứng chặn ngang trước mặt vua và nói: “Đại
vương, tội ác của anh ta đã bị trừng trị rồi, ngài không cần ra tay
trừng trị nữa. Khi sự tham lam đã khống chế trong lòng người ta thì họ
dễ dàng quên mất đạo lý và những việc hợp theo lẽ phải. Khi sự nghèo khó
ám ảnh trong tâm trí người ta, thì họ dễ sa vào các mối tham dục, bám
theo danh lợi cũng như con thiêu thân khờ khạo lao đến chỗ ánh đèn. Xin
đại vương mở rộng lòng thương, đừng giận giữ làm gì. Người ấy làm việc
này là vì muốn được ban thưởng, xin ngài cứ ban thưởng cho anh ta khỏi
hoài công. Còn thân tôi đây, tôi chấp nhận để cho ngài bắt lấy!”
Đức vua rất cảm động vì tấm lòng từ bi của nai chúa đối với kẻ hại mình.
Ngài nhìn nai một cách kính nể và phán rằng: “Lành thay! Lành thay! Đối
với người hại mạng ngài mà ngài còn tỏ lòng từ như vậy! Với tấm lòng
đại đức ấy, ngài mới xứng là đáng làm người, còn như chúng tôi đây chỉ
mang lấy cái hình dáng con người mà thôi! Ngài đã mở lòng thương mà xin
ban thưởng cho hắn ta, tôi xin nghe theo. Còn ngài, tôi xin được để cho
ngài tự do đi khắp trong nước của tôi, bất luận chỗ nào.”
Nai chúa đáp: “Tôi nhận lời của đại vương. Mong rằng sự gặp gỡ này sẽ giúp ích cho cả đôi bên.”
Vua liền thỉnh nai chúa lên long xa như một bậc thầy, dùng nghi lễ trọng
hậu mà đưa về kinh đô, tiếp đãi như bậc thượng khách. Vua lại mời nai
chúa lên một cái ngai lớn, rồi triệu tập các quan văn võ và phi tần
trong cung nội đến, thỉnh cầu nai chúa thuyết pháp. Vua nói: “Thưa ngài,
hiện nay nói về đạo lý thì sự hiểu biết của con người chia ra lắm nẻo.
Ngài biết được sự chân thật, xin ngài truyền dạy cho chúng tôi.”
Khi ấy, nai chúa thể hiện tâm địa của hàng Bồ Tát, vì đức vua và đại chúng, dùng lời lẽ êm dịu và hùng hồn mà thuyết pháp:
“Này đại vương, chỉ một tâm từ bi là đủ bao quát hết thảy mọi đạo lý.
Người có tâm từ bi thì trọn đời không giết hại sinh mạng chúng sanh;
không trộm cướp, lường gạt tài sản của kẻ khác; không làm việc tà dâm
với vợ hoặc chồng của người khác; không nói dối, không nói lời độc ác,
gây hận thù hay gây chia rẽ người khác; và không uống rượu để giữ lấy sự
tỉnh táo, sáng suốt mà hành đạo từ bi. Giữ trọn được những điều ấy
chính là giềng mối căn bản nhất mà cũng là cao cả nhất trong tất cả các
đạo lý.
“Này đại vương! Nếu con người có được tâm từ bi, thì dù cho đối với bà
con thân quyến hay với kẻ xa lạ, cũng không thể nghiêng theo sự bất công
và độc ác mà làm hại đến người.
“Chính vì không chịu nuôi dưỡng tâm từ bi, con người mới thường xuyên
phạm vào những điều ác bằng tư tưởng, lời nói và việc làm, đối với những
người thân thuộc cũng như đối với kẻ xa lạ.
“Ai muốn điều thiện thì nên nuôi dưỡng lòng từ bi, vì do nơi đó mà sanh
ra được những quả lành. Cũng như mưa xuống có thể giúp cho cây cối đơm
hoa kết trái, lòng từ bi tăng trưởng cũng vậy, có thể giúp cho nảy sinh
đầy đủ mọi đức tánh tốt lành.
“Nếu trong tâm mình biết nuôi dưỡng lòng từ bi, mình sẽ không sa ngã vào
nẻo ác. Nếu tâm ý mình trong sạch, thì lời nói và việc làm đều không
phạm vào các điều ác. Lòng từ bi thương xót luôn muốn cứu giúp, mang lại
sự lợi ích cho mọi người, do đó mà càng làm tăng trưởng tâm bố thí, làm
phát sanh tâm nhẫn nhục, cùng với nhiều đức tánh tốt đẹp khác nữa.
“Người có tâm từ bi không làm cho kẻ khác tán loạn, luôn mang lại sự an
ổn cho người khác, vì chính mình đã được an ổn rồi. Người có tâm từ bi
đặt lòng tin cậy nơi mọi người khác như với người thân thích của mình.
Người có tâm từ bi không bị sự thúc giục của lòng sân hận, không bị lửa
giận đốt thiêu, vì trong lòng luôn sẵn có sự tươi nhuận mát mẻ của đức
từ bi.
“Tóm lại, hết thảy các vị hiền nhân thánh triết đều khuyên nên lấy việc
nuôi dưỡng lòng từ bi làm đạo lý căn bản nhất. Ai nuôi dưỡng được lòng
từ bi thì cũng làm tăng trưởng tất cả các đức tính tốt đẹp khác. Này đại
vương, ngài nên thương lấy tất cả mọi người như thương con cái của
mình, như thương chính bản thân mình. Nếu ngài biết nuôi dưỡng lòng từ
bi, làm tăng trưởng mọi điều thiện, tất cả thần dân đều sẽ đem lòng cảm
phục, kính mến ngài, làm cho danh phận, ngôi vị của ngài ngày càng trở
nên cao quý và vững chắc.”
Vua được nghe bài thuyết pháp ấy, rất lấy làm hoan hỷ. Ngài phát nguyện
cùng với dân chúng trong thành phố và nơi thôn dã khắp nước ngài đều sẽ
gắng sức làm theo lời dạy ấy. Từ đó, ngài ban lệnh ra khắp nơi trong
nước, bảo vệ cho hết thảy các loài chim muông cầm thú đều được an ổn tự
do, không còn bị loài người làm hại.