MẸ CHẾT CON SỐNG
Thuở ấy, Phật đang ở trong vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, gần thành Xá Vệ, với chúng đệ tử một ngàn hai trăm năm mươi người.
Lúc đó, có một vị vua tin theo đạo Bà-la-môn, hết lòng tin cậy nơi các
thầy Bà-la-môn. Vua có một người phi tần trẻ tuổi, xinh đẹp, được vua
yêu thương nhất. Bà này có thai, sắp đến kỳ sanh nở. Những phi tần khác
của vua đem lòng ganh ghét bà này, lấy vàng bạc mua chuộc một thầy
Bà-la-môn, bảo thầy tìm cách mà hại bà ấy.
Thầy Bà-la-môn nhận vàng bạc rồi, một hôm tìm đến gặp vua tâu rằng:
“Người phi tần đang có thai là một người kém đức lắm. Nếu sanh con ra
sau này sẽ có hoạ lớn trong nước.”
Vua nghe mấy lời ấy, lấy làm sợ sệt, mới hỏi thầy Bà-la-môn rằng: “Bây
giờ phải làm sao?” Thầy Bà-la-môn đáp: “Chỉ có một cách thôi, là phải
giết cả hai mẹ con đi thì mới khỏi hoạ.”
Vua nói: “Mạng sống con người ta quý giá lắm, làm sao trẫm có thể vô cớ
giết đi cho được?” Thầy Bà-la-môn nói: “Nếu không làm việc ác nhỏ, về
sau thế nào bệ hạ cũng phải mắc hoạ to, ắt sẽ phải mất nước và bỏ mạng.”
Vua tin theo những lời ấy của thầy Bà-la-môn, nên người phi tần đang sắp
sanh nở phải bị chết oan. Người ta đem chôn bà sơ sài ngoài bãi đất
hoang. Không ngờ đứa con trong bụng bà không chết mà tự chui ra được. Nó
sống trong mồ, ôm lấy phân nửa thân mình của người mẹ chưa tan rã mà
mút lấy sữa. Nhờ vậy mà được sống sót. Rồi như một phép lạ, nó chui theo
kẽ đất mà ra khỏi mồ, bò lê trong bãi đất hoang, ăn những sâu bọ rễ
cây, uống những sương móc mà lớn lên. Đến năm được ba tuổi, nó lân la về
các xóm làng gần đó, được người ta thương cho ăn mà sống, tối lại quay
về ngủ ở bên mồ mẹ nó.
Khi đứa nhỏ được sáu tuổi, đức Phật từ bi biết hết thảy câu chuyện
thương tâm của mẹ con nó, lại biết đã đến lúc có thể cứu nó thoát khỏi
cuộc sống u tối xưa nay. Ngài liền cùng với các vị đệ tử tìm đến bãi đất
hoang nơi nó sinh sống, gọi nó đến và hỏi rằng: “Con là con cái nhà
ai?” Đứa nhỏ vừa nhìn thấy đức Phật với dáng vẻ từ bi hoan hỷ thì vui
mừng lắm, nó đáp: “Con từ nhỏ lớn lên không biết cha mẹ. Hằng ngày về
xóm xin ăn, tối lại về đây ngủ. Hôm nay gặp được ngài, xin ngài cho con
theo với.” Phật lại hỏi: “Con muốn theo ta làm gì?” Nó đáp: “Con muốn
được như các vị đệ tử của ngài đây. Xin ngài nhận cho.”
Đức Phật liền nhận đưa nó về tinh xá. Khi nhìn thấy chúng tăng oai nghi,
phúc hậu, nó càng lấy làm thích lắm. Nó thưa với Phật rằng: “Con cũng
muốn được làm một vị sư.” Phật liền dùng tay vuốt tóc nó, tóc liền rụng
hết, và có một bộ áo cà sa hiện ra trên thân nó. Đức Phật lại đặt pháp
danh cho là Siêu Tử.
Thầy Siêu Tử tu hành tinh tấn, lại thông minh sáng dạ, nghe đâu hiểu
đấy, nên tư tưởng thầy tiến bộ rất nhanh chóng. Trong bảy ngày, thầy
thông hiểu đạo lý và chứng được quả A-la-hán, có đủ thần thông tự tại.
Một hôm, đức Phật gọi thầy Siêu Tử đến dạy rằng: “Con đã giải thoát khỏi
mọi phiền trược của thế gian rồi. Nay ta cho con biết rằng cha của con
là một vị quốc vương, xưa nay vẫn tin theo ngoại đạo tà kiến. Con nên
đến đó tìm cách mà cứu độ cho vua cha.”
Thầy vâng lời, cung kính lễ Phật rồi lui đi. Rồi thầy dùng thần thông
hiện đến trước cung vua, xin được vào ra mắt đức vua. Quân hầu vào tâu
rằng: “Bên ngoài có một vị sa-môn muốn được gặp bệ hạ.” Vua liền cho
vào.
Hai bên chủ khách chào hỏi xong, nhà vua liền đến đứng trước thầy và
hỏi: “Bạch thầy, trẫm có một việc lo buồn, không phải nên làm thế nào?”
Thầy Siêu Tử hỏi: “Bệ hạ lo buồn việc việc chi?”
Vua nói: “Trẫm nay đã lớn tuổi, không còn sống được bao lâu, mà vẫn chưa có người kế vị. Vì thế nên trẫm lo buồn.”
Thầy Siêu Tử nghe vua nói lời ấy xong thì bỗng nhiên thầy bật cười. Vua
lấy làm giận, sai quân đuổi ra. Quân lính đến lôi thầy đi, thầy liền
hiện thân bay lên hư không, đứng giữa hư không, rồi hiện ra nhiều phép
thần biến khác, làm cho mọi người đều trông thấy. Vua thấy vậy lấy làm
khiếp sợ, lấy làm hối hận, nói rằng: “Trẫm thật là người có mắt không
tròng, chẳng phân chân giả. Nay đại đức có gì chỉ dạy xin nói ra cho.”
Thầy Siêu Tử từ trên hư không lại hiện xuống trước mặt vua và nói: “Này
bệ hạ, như có người đang đói khát, lại mang những món cao lương mỹ vị
sẵn có trong nhà mình ra vất bỏ ngoài bãi đất hoang, rồi đi than vãn với
mọi người rằng: Tôi đói quá! Tôi đói quá! Bệ hạ nghĩ sao về người ấy?”
Vua nói: “Ấy thật là người ngu xuẩn và chuyện ấy thật đáng buồn cười.”
Thầy Siêu Tử nói: “Bệ hạ cũng không khác chi người ấy. Từ bao lâu nay
vẫn mong cầu một đứa con trai nối nghiệp, thế mà có người phi tử sắp hạ
sanh vương tử lại đem giết bỏ chôn ngoài bãi đất hoang, nay lại than vãn
lo buồn về nỗi không con cái, há chẳng đáng cười lắm sao?”
Vua nghe nói tái mặt, vừa sợ vừa buồn, nhớ lại tội ác đã làm, liền nói:
“Đại đức quả là thần thông diệu trí, có thể biết hết cả mọi chuyện trong
thâm cung. Trẫm năm xưa làm việc ác độc ấy cũng là vì tin theo lời các
thầy Bà-la-môn, nay nghĩ lại hối hận thì chuyện đã rồi. Xin đại đức nghĩ
cách cứu độ cho.”
Thầy Siêu Tử nói: “Lời nói của thầy Bà-la-môn là vô căn cứ, bệ hạ lại mù
quáng tin theo. Trong việc này bệ hạ không phải là không có lỗi. Nay
muốn cải tà quy chánh thì vẫn còn kịp đó. Mong bệ hạ sớm biết tìm đường
ngay nẻo thẳng mà đi.”
Vua quỳ xuống thưa rằng: “Lời đại đức dạy thật là thấu tình đạt lý. Từ nay trẫm xin được quy y theo đại đức.”
Thầy Siêu Tử nói: “Bần tăng tuy đã đạt được quả vị giải thoát, nhưng hãy
còn kém xa đức Phật. Nay Phật đang còn tại thế, bệ hạ nên đến quy y với
ngài.”
Ngay khi đó, vua ra lệnh cho quan quân chuẩn bị long xa để vua ngự đến tinh xá lễ Phật.
Đến nơi, vua cung kính lễ Phật, phát nguyện quy y Tam bảo và giữ theo Ngũ giới, làm người cư sĩ tu tập tại gia.
Phật dạy rằng: “Này đại vương, sa-môn Siêu Tử đây chính là con của người
vợ có thai mà ngài đã giết, vì tin theo lời ác của một thầy Bà-la-môn.
Người mẹ đã chết chôn dưới mộ, nhưng may là đứa con đã đủ tháng tự chui
ra. Nhờ có phân nửa thân mình người mẹ chưa phân rã, vẫn còn sữa mà đứa
con được bú. Khi lên sáu tuổi, nó theo ta mà học đạo. Nay trở thành
sa-môn Siêu Tử đây.”
Vua nghe mấy lời của Phật, hiểu ra sự thật thì càng lấy làm sợ hãi. Phật lại kể tiếp cho vua nghe một câu chuyện như thế này:
Ngày trước có một vị vua tên Phu-sô-ta. Trong nước ông ta có một người
dân nghèo không nhà cửa, thường ngày đi làm thuê cho các nhà giàu. Người
ấy thường giữ việc dắt bò ra cho ăn ngoài đồng. Khi thấy nhân dân trong
nước cung kính các vị sa-môn, người ấy mới theo hỏi rằng: “Vì sao các
ông cung kính những vị ấy?” Họ đáp: “Chúng ta thờ Phật, trọng tăng, ngày
sau sẽ được hưởng phúc.” Người ấy lại hỏi: “Hưởng phúc như thế nào?” Họ
đáp: “Người nào có lòng lành, thường cúng dường các vị sa-môn, thì ngày
sau dù ở đâu cũng được yên ổn, lại được kẻ khác thương mến, kính trọng
và không gặp nạn khổ.”
Khi đó, người ấy tự nghĩ rằng: “Ta cũng rất muốn cúng dường các vị
sa-môn để ngày sau được hưởng phúc, nhưng ta nghèo quá, phải đi giữ bò
thuê cho người. Chính mình không có đủ thức ăn hằng ngày, thì lấy gì mà
cúng dường cho các vị sa-môn?”
Rồi người ấy lại nghĩ: “Được rồi, ta có thể vắt lấy sữa bò mà cúng
dường.” Nghĩ sao làm vậy, người ấy lấy lòng thành mà vắt lấy sữa bò cúng
dường cho các vị sa-môn. Các vị ấy thọ nhận rồi chú nguyện rằng:
“Nguyện cho nhà ngươi được hưởng phước đời đời!”
Từ đó về sau, trải qua nhiều kiếp luân hồi, người ấy luôn được hưởng
nhiều phước lành. Cho đến một đời kia, người ấy được làm vua, trong lúc
đi săn với triều thần có hoàng hậu đi theo. Đi chưa đến rừng, thấy một
con bò cái giữa đồng. Hoàng hậu từ trước chưa đi săn bao giờ nên bảo mấy
người thợ săn bắn nó cho mình xem. Vua ngần ngừ, nói: “Ấy là bò của dân
nuôi, chẳng phải bò rừng. Vả lại, không nên giết bò cái, e là nó đang
có mang.” Nhưng hoàng hậu không nghe, bảo thợ săn bắn chết con bò.
Ngay lúc đó, người chủ bò đến, thấy con bò cái đang có mang của mình đã
bị bắn chết, liền rọc bụng đem được con bò con còn sống ra mà nuôi.
Người ấy lấy làm oán giận, thề rằng: “Vô cớ mà giết bò của ta, ngày sau
ta thề phải trả thù này.”
Nhà vua thuở ấy, sanh ra làm Siêu Tử đây, phải chịu cái khổ chưa ra khỏi
lòng mẹ mà mẹ đã chết rồi, vì ngày trước không cản được hoàng hậu để
cho con bò con phải sinh ra mà không có mẹ. Hoàng hậu thuở ấy tâm địa ác
độc, muốn giết con bò mẹ chỉ để xem chơi, nay sanh làm mẹ của Siêu Tử,
phải bị người ta giết oan để trả mối nợ cũ. Còn thầy Bà-la-môn xúi giục
vua giết mẹ thầy, ấy là người chủ con bò cái ngày trước, vì lòng oán hận
mà đeo đuổi theo nhau để trả thù. Nhưng thầy Siêu Tử sở dĩ muôn phần
chắc chết mà vẫn còn sống được, là nhờ đời trước đã có lòng thành dâng
sữa cúng dường cho các vị sa-môn.
Phật dạy: “Nhân quả ở đời như bóng theo hình, không hề sai chạy. Người
làm lành tất phải được hưởng phước, người làm ác tất phải mang lấy hoạ.”
Vua nghe Phật thuyết xong, hiểu thấu lý nhân quả, tín tâm sâu vững,
chứng được quả Tu-đà-hoàn là quả đầu tiên trong bốn Thánh quả. Những
người theo vua đều phát tâm thọ trì Ngũ giới, tu pháp Thập thiện (mười
điều lành).