Luật Nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh.
Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong sự sợ hãi mê tín 
mù mờ. Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua sự mê tín dị đoan.
Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần đất đai giận nên 
phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời mưa. Mới đầu thì
tế lễ bằng con gà không có hiêäu quả, rồi đến con bo,ø đến khi sự cuồng
tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một trinh nữ để tế thần 
như dân tộc Incas đã từng làm. Ngoài ra trong cuộc sống hàng ngày đi 
đứng làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt như vậy để tránh 
cái sợ hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không hẳn là tránh 
được những điều xấu. Nếu quả thật có như vậy thì thế giới này không có 
sự đau khổ vì mọi sự đều như ý con người muốn.
Luật Nhân Quả trong cuộc sống xã hội và khoa 
học
Thái
Minh Trung, MD
Luật Nhân quả là một cuộc cách mạng tâm linh.
Khi không hiểu luật nhân quả, con người sống trong 
sự sợ hãi mê tín mù mờ.  Họ giải thích những hiện tượng thiên nhiên qua 
sự mê tín dị đoan.  Thí dụ khi hạn hán mất mùa, họ nghĩ là vì ông thần 
đất đai giận nên phải hối lộ ông ta bằng cách cúng kiến mới có được trời
mưa. Mới đầu thì tế lễ bằng con gà không có hiêäu quả, rồi đến con bo,ø
đến khi sự cuồng tín lên cao có thể dẫn đến giết một em bé hay một 
trinh nữ để tế thần như dân tộc Incas đã từng làm.  Ngoài ra trong cuộc 
sống hàng ngày đi đứng làm cái gì quan trọng thì phải coi ngày giờ tốt 
như vậy để tránh cái sợ hãi của những điều xấu xảy ra bất thần chớ không
hẳn là tránh được những điều xấu.  Nếu quả thật có như vậy thì thế giới
này không có sự  đau khổ vì mọi sự đều như ý con người muốn.  Ông vua 
dù có mướn thầy địa lý giỏi nhất nước để xây cung điện nhưng nếu không 
thương dân, lấy thuế cắt cổ, lúc hết thời thì ngai vàng vẫn bị mất như 
thường.  Nói về hành động cá nhân, nếu không nhận thức có luật nhân quả 
thì không có gì ngăn cản con người làm việc ác miễn sao trốn tránh được 
cặp mắt của luật pháp là được, cho nên xã hội rất bấp bênh.  Nếu vua và 
dân hiểu được luật nhân quả thì đất nước dễ thanh bình và dân sẽ được 
hạnh phúc.
Khi Đức Phật giác ngộ thì Ngài nhận ra luật nhân 
quả là nền tảng của thế giới tâm linh và vật chất.  Mọi hiện tượng từ 
tâm lý đến vật chất đều có những sự liên quan vô hình rất chặt chẽ, đó 
là luật nhân quả. Luật nhân quả là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố 
xuyên qua thời gian và không gian. Cho nên khi hiểu luật nhân quả, ta có
thể thay đổi biến cố đó theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ hối
lộ hoặc cầu khẩn một vị thần linh tưởng tượng nào đó phù hộ cho ta hoặc
thỏa mãn điều ta mong ước. Sự mê tín cuối cùng sẽ đưa đến sự thất vọng 
và mặc cảm tội lỗi(ta có tội nặng quá vị thần không giúp được).
Luật nhân quả rất đơn giản, nếu muốn có một kết quả
tốt thì ta phải tạo nhân lành.  Thí dụ như khi ta nuôi dưỡng một ý nghĩ
hận thù thì ta không thể vui cười hồn nhiên được. Khi ta gạt gẫm người 
khác thì tối về ngủ không yên giấc vì sợ bị phát hiện. Khi ta gieo hạt 
lúa thì không bao giờ được cây cổ thụ. Khi con người bắt đầu hiểu được 
như vậy thì họ lấy về được một phần sức mạnh của những vị thần linh.  Họ
bắt đầu làm chủ được tương lai của họ và lấy lại định mệnh của họ từ 
tay các vị thần.  Hiểu và tin được luật nhân quả là một cuộc cách mạng 
tâm linh (spiritual revolution) vì sự nhận thức đó sẽ phá tan gông cùm 
của sự mê tín và giúp con người làm chủ được cuộc sống của họ.
Luật Nhân quả và khái niệm không gian thời gian.
Khi đi từ thế giới tâm linh qua thế giới vật chất 
thì sự thể hiện của luật nhân quả thay đổi từ rõ đến mờ.  Sự thể nghiệm ở
thế giới tâm linh rất nhanh và rõ nhưng khi qua cái màn nặng nề của thế
giới vật chất thì luật nhân quả bị loãng ra vì phải trải qua nhiều thời
gian mới hiện ra rõ được. Cũng vì thế mà khi con mắt bị vậït chất làm 
mờ rồi rất khó mà nhận thức luật nhân quả.  Thí dụ như  kẻ trộm thành 
công một vài lần rất khó nhận thức rằng mình sớm muộn gì sẽ vào tù.  Nếu
kẻ trộm đó nhận thức rằng mình cần phải thay đổi lòng tham của mình 
(thế giới tâm lý) thì trong tức khắc có khả năng thay đổi được chiều 
hướng cuộc sống mình bằng cách học nghề và làm ăn lương thiện.  Ngược 
lại nếu anh ta cứ tiếp tục hành nghề bất lương, lòng tham càng lớn và ăn
trộm càng táo bạo hơn, thì một thời gian sau đó anh bị bắt vào tù và sẽ
hối hận (thế giới vật chất).  Như vậy khi nhận thức ở tâm linh thì 
chuyển nghiệp (karma) rất nhanh, đợi khi nó thể hiện ở cõi vật chất rồi 
thì cái thời gian thay đổi rất chặm chạp, khó khăn, phức tạp và khổ sở. 
Với đời sống con người có giới hạn thời gian, sự nhận thức có được khi 
hoàn cảnh xấu xảy ra đôi lúc quá trễ. Con người có thể không còn đủ thời
giờ để cải thiện. Ngoài ra khi họ tiến quá sâu trong hoàn cảnh xấu, trở
lại điểm ban đầu rất là gian nan. Thí dụ như anh trộm khi ra tù muốn 
học lại thì tuổi cao, kiến thức đổi khác nhiều, bạn bè cùng lứa đã có sự
nghiệp thành công hết. Anh ta phải khuất phục sự chậm chạp của tuổi cao
và lòng mặc cảm để đi học lại. Mặc dù như thế, anh ta sẽ khó mà ngang 
hàng với các bạn được vì mất khoảng thời gian quá lâu trong tù.
Khi hiểu được luật nhân quả thì câu hỏi có định 
mệnh (destiny) hay không là tùy nơi con người.  Định mệnh có thật khi ta
để lực (force) nhân quả lôi cuốn và thụ động để cái nhân ở tâm lý biến 
thành cái quả ở thế giới vật chất. Định mệnh không có khi ta chủ động 
biến chuyển những tư tưởng (nhân)  xấu thành tốt và theo đó diễn biến 
(quả) tốt lành sẽ đến với ta. Đôi lúc cái nhận thức nhân quả ở thế giới 
vật chất  rất khó khăn vì có người làm lành mà sao lại gặp ác, rồi họ 
đâm ra chán nản và cho rằng không có luật nhân quả.  Sở dĩ như vậy vì 
con mắt phàm không thể nhìn thấu được quá khứ và không hiểu được những 
khúc mắc của nghiệp.   Nhưng nếu có người nào đó giữ được tâm hồn tha 
thứ buông  xả thì mặc dù biến cố xấu đến với họ đó, nhưng cái tác động 
trên tâm lý tạo sự đau khổ giảm đi rất nhiều. Thì đó chẳng qua là một 
điều lành trong một biến cố dữ.  Hiểu được luật nhân quả ở tâm thì ta 
nhận thức rõ hơn và ta sẽ thấy sự thay đổi nhanh hơn.
Nhân-duyên-quả
Nghiệp (karma) là những biến cố vui buồn xảy ra 
trong đời người.  Nghiệp, dòng sông nhân quả trong cuộc đời con người, 
rất là phức tạp.   Nghiêäp không phải đơn giản như một cái máy, ta bấm 
nút (nhân) thì máy hoạt động (quả).  Nghiệp có thể ví như một dòng sông 
và nhân quả là những phân tử (molecule) nước lưu chuyển, tác động lẫn 
nhau trong dòng sông đó.  Ngoài nhân-quả ra còn yếu tố duyên nửa.  Duyên
là những yếu tố ở không gian và thời gian giúp nhân trở thành quả hoặc 
ngược lại ngăn cảng hoặc đình trệ sự nối liền của nhân quả, làm giảm sức
mạnh của quả.  Sự sống đa dạng và sáng tạo là nhờ duyên.  Như vậy duyên
đóng vai trò điều chỉnh (modulation) nhân-quả. Thí dụ dễ hiểu là khi ta
gieo hạt lúa (nhân) trong đồng ruộng ẩm ướt phì nhiêu (duyên) vài tháng
ta sẽ có những cọng lúa xanh mượt (quả). Nếu có người lữ hành băng qua 
sa mạc và làm rơi một hạt lúa thì ngàn năm sau hạt lúa đó vẫn là hạt lúa
(nghịch duyên).  Nếu hạt lúa đó được gió thổi rơi vào một nơi ẩm ướt 
trên sa mạc thì hạt lúa sẽ mọc thành cọng lúa nhưng rất yếu ớt vì thiếu 
phân bón. Như thế ta thấy rằng cùng một nhân, qua nhiều duyên khác nhau 
sẽ cho ta kết quả khác nhau. Thực tế nhân quả không đơn giản như trên mà
hoạt động như một mạng lưới nhện (web).
Một nhân có thể là khởi đầu của một chuỗi phản ứng 
(chain of events). Những yếu tố duyên tác động lên chuổi phản ứng đó để 
cho ra nhiều kết quả ở nhiều từng lớp khác nhau. Thí dụ: Có một người vì
lòng tham (nhân) phá rừng  bán gỗ làm lợi nhuận cho riêng mình. Trời 
mưa, không có rễ cây hút nước (duyên) nên tạo thành lụt (quả),  loài 
chim mất môi sinh (duyên) dời đi nơi khác (quả).  Không có chim ăn 
(duyên) nên sâu bọ lan tràn đồng ruộng (quả).  Không có cây hút thán khí
(CO²) nên từ đó khí hậu bị ô nhiễm.  Một nhân thiếu sáng suốt sẽ gây ra
rất nhiều hậu quả tai hại về sau mà ta khó có thể lường trước được.
Giới luật là nhằm biến đổi cái duyên để cho cái 
nhân tham, sân và si không có cơ hội để biến thành quả dữ (tham-ăn trộm,
sân-giết chóc, si-đau khổ).  Xuất gia là tránh xa những duyên có thể 
dẫn đếøn quả dữ và gần gũi với những duyên khuyến khích quả lành được 
biểu hiện. Tuy nhiên thay đổi duyên ở thế giới vật chất không bền vững 
lắm. Thí dụ lòng tham tiền có thể biến thành tham chùa mình được đẹp 
nhứt, sân (giận) có thể biến thành bực bội khi đệ tử quên chấp tay xá 
mình, và si là chấp vào thời gian tụng kinh mà không hiểu ý kinh tạo ra 
sự tranh chấp hơn thua. Cho nên vào cảnh tịnh mà còn giữ mầm mống tham, 
sân, si thì cảnh tịnh đó sẽ trở nện cảnh ưu phiền.
Thiền tông chú trọng đến cái duyên ở tâm là tư 
tưởng.  Tham, sân, si mà không có tư tưởng để nuôi dưỡng chúng thì dần 
dần sẽ tự tiêu mòn. Cho nên giữ  giới nơi tâm thì hiệu nghiệm hơn là giữ
ở thân hay cảnh.  Nếu tâm ta nuôi dưởng sự bực dọc mà miệng thì tụng 
kinh thì khó có thể mà ta có được hạnh phúc vì càng tụng kinh, càng mệt 
mỏi thì sự bực dọc càng nhiều hơn nữa.  Một trong những phương pháp 
thiền là ta nhận thức sự bực bội và từ bi hỷ xả phóng sanh nó ra theo 
từng hơi thở nhẹ nhàng rồi dần dần sự bực bội đó sẽ tan biến.  Đó là một
cách “tụng kinh sống” hữu hiệu nhứt. Tung kinh sống là tụng ý (thay vì 
chữ) kinh trong từng hơi thở, trong lúc đi, đứng, nằm và ngồi. Nói một 
cách khác, thiền hay tụng kinh sống làkhi ta ý thức không tạo cái duyên 
nuôi dưỡng tham, sân, si trong tâm ta. Nếu ta không nuôi chúng thì tự 
động chúng sẽ rời bỏ ta.  Rồi ta sẽ trở về sống với con người hạnh phúc 
của ta.
Nhân quả và Thiên Chúa giáo.
Mặc dù Thiên Chúa giáo không đề cập nhân quả một 
cách trực tiếp nhưng tất cả những câu chuyện trong Thánh kinh đều khuyên
răng con chiên hãy củng cố lòng tin Chúa, thương người, giúp đỡ xã hội 
thì sẽ được cuộc sống hạnh phúc trong vĩnh cửu. Nói một cách khác Chúa 
khuyên con chiên tạo nhân lành (lòng tin, thương người, tha thứ), tạo 
duyên lành (xây dựng một xã hội lấy nền tảng là sự yêu thương đùm bọc 
lẩn nhau, truyền đạo cho nhiều người được nhận thức) thì kết quả cuộc 
sống hạnh phúc sẽ dễ được thực hiện trên thế gian này và nếu tất cả mọi 
người làm được thì sẽ được hạnh phúc trong vĩnh cửu.
 
Tuy nhiên có nhiều con chiên quá cuồng tín dùng sức
mạnh áp đặt niềm tin lên kẻ khác và kết quả là hận thù và chiến tranh. 
Điều dễ hiểu là vì cái nhân là tham (muốn cá nhân mình được nhiều phước 
khi dẫn người khác vào đạo), sân (bực tức khi người ta không theo đạo 
mình) và si mê (ngạo mạn coi đạo mình trên tất cả các đạo khác) thì kết 
quả sẽ là chiến tranh và đau khổ.  Vấn đề này không hẳn xảy ra ở đạo 
Chúa mà còn gặp ở nhiều tôn giáo khác hoặc ngay cả ở đạo Phật (phái này 
chê bai phái khác).  Đó là vì con người mê lầm không chữa trị cái tham, 
sân si nơi chính mình mà muốn thay đổi thế gian.  Muốn cái quả khác cái 
nhân thì không bao giờ có được.  Nếu có kẻ nào nói làm được hẳn là họ tự
gạt chính họ,  sống trong ảo tưởng u mê.  Tôn giáo cũng như  thuốc, trị
đúng bịnh thì thuốc hay, dù có thuốc quý mà dùng sai bịnh thì thuốc quý
có thể thành độc dược.  Vì thế không thể nói thuốc này hay hơn thuốc 
kia được.  Đạo Phật có thí dụ ngón tay (phương tiện) chỉ mặt trăng, nếu 
ta ở nhiều nơi khác nhau thì ngón tay sẽ chỉ nhiều hướng khác nhau, 
nhưng khi nhìn thấy mặt trăng (cứu  cánh) thì chỉ có một.
Tác động trên tâm lý của Thiên Chúa giáo là dùng 
tình thương người và sự tha thứ tạo cái duyên lành làm giảm bớt ảnh 
hưởng của hoàn cảnh xấu (quả).  Nếu ta tin vào một Thượng Đế công bằng 
bác ái ở bất cứ mọi nơi và mọi lúc, thì ta giao phó cho Ngài xử phạt 
những bất công trong cuộc đời ta.  Như thế ta không mất ngủ bực tức tìm 
cách trả thù hay tìm những lời nói đâm thọc xỏ xiêng. Với lòng tin đó ta
sẵn sàng tha thứ kẻ muốn ám hại ta, tâm ta được an ổn và ta gieo rắc sự
an ổn đó cho những người chung quanh ta.  Làm được như vậy, mặc dù ta 
không mở miệng truyền giáo nhưng sẽ có rất nhiều người theo vì họ mến 
ta.  Như thế lời cầu nguyện hữu hiệu nhứt phát xuất từ tư tưởng tha thứ 
thương yêu chớ không phải từ miệng nói tiếng thương yêu trống rỗng.  
Giáo đường chân thật của một linh mục hay mục sư là sự an ổn của con 
chiên khi họ cảm nhận được tình thương và sự tha thứ chân tình qua hành 
động của vị mục sư đó, chớ không phải cái giáo đường bằng ngói, bằng 
gạch.  Cái giáo đường vật chất không bao giờ làm ấm được lòng người. Ta 
không thể nào gieo rắc sự an lành chung quanh ta nếâu ta không có cái 
nhân của sự an lành đó trong tâm ta.  Ta có thể dối chính ta chớ không 
thể dối với Thượng Đế và luật nhân quả được.
Nhân quả và y khoa.
Tuy nhân quả xuất xứ từ Phật giáo nhưng không hạn 
chế ở phạm vi tôn giáo.  Hiểu được nhân quả giúp ta rất nhiều trong việc
phòng ngừa bịnh tật.  Trong Đông Y có câu người y sĩ giỏi trị bịnh lúc 
mà bịnh chưa phát triển.  Y khoa hiện đại cũng đồng ý với vấn đề ngưà 
bịnh hơn là chữa bịnh.  Cách tốt nhứt cho con người về vấn đề sức khỏe 
và xã hội về vấn đề tài chánh là thay đổi cuộc sống để ngừa bịnh.   Muốn
ngừa bịnh (quả) ta phải hiểu cho ra lẽ những yếu tố gây ra bịnh (nhân),
tìm cách làm suy giảm những nguyên nhân gây ra bịnh, tìm cách không tạo
duyên xấu để cho hậu quả bịnh dễ xảy ra và củng cố những duyên lành để 
ngăn ngừa bịnh.
Bây giờ ta hiểu nguyên nhân của nhiều chứng bịnh là
do vi trùng (bacteria) và vi khuẩn (virus) có kích thươcù nhỏ hơn vi  
trùng gây ra.  Để làm suy giảm những nguyên nhân tạo ra bịnh, những nhà 
thuốc sáng chế ra các loại thuốc trụ sinh.  Sự ỷ y có thuốc trụ sinh để 
trị bịnh mà không cần phòng ngừa hoặc dùng thuốc trụ sinh một cách không
phân biệt đưa đến  sự  ra đời của những siêu vi trùng (“super bugs”) có
sức  kháng trụ sinh.  Về phần bịnh nhân phải ráng ăn ở vệ sinh để không
tạo cái duyên cho những loại vi trùng xâm chiếm cơ thể họ. Vaccine 
(chích ngừa) là cách phòng ngừa bịnh bằng cách dùng bộ kháng nhiễm 
(immune system) để chống lại bịnh. Vaccine là một cách thay đổi duyên 
làm cơ thể không thuận cho sự phát triển của bịnh.  Một cách ngừa bịnh 
khác nữa làta ăn ở vệ sinh, tìm cách tránh những nơi dễ gây ra bịnh tật 
là góp phần vào sự củng cố những duyên không thích hợp cho bịnh phát 
triển.  Thực tế, ta không thể nào diệt trừ được tất cả những nhân tạo 
bịnh mà cách dễ dàng nhất là biến đổi cái duyên không thuận cho bịnh-quả
phát triển.  Con đường trị bịnh bằng cách diệt trừ nhân một cách hoàn 
toàn rất nguy hiểm vì có thể đưa đến sự mất cân bằng môi sinh và có thể 
tạo nhiều mối hiểm nguy khác.  Thí dụ như khi ta đi du lịch ở những nước
khác dễ bịnh tiêu chảy vì ở điều kiện ta sống không có loại vi trùng đó
(nhân bị diệt) nên cơ thể ta không có chất miễn nhiễm, dễ sanh ra bịnh.
Đứng trên phương diện năng lượng (sức lực, thời gian, tài chánh), dùng
duyên để  phòng ngừa quả là áp dụng năng lượng một cách hữu hiệu nhứt.
Nhân quả và tâm lý học.
Stress, sự căng thẳng tinh thần,  là vấn đề lớn của
thời đại.  Stress có thể coi như cái cửa mở cho nhiều bịnh tật vào thân
thể ta.  Những triệu chứng khởi đầu của stress là lo âu, bực bội và mất
ngủ .  Ngoài ra nhức đầu, buồn nôn, mất ăn, cao máu với nhịp tim đập 
nhanh cũng có thể là một triệu chứng của stress nửûa.  Thuở xưa,  Đức 
Phật có cho một thí dụ rất thích hợp với stress ngày nay.  Thí dụ rằng 
có một người bị mũi tên bắn bi thương.  Người đó lo âu muốn biết mũi tên
này từ đâu tới, ai bắn, lý do nào bắn, rồi lo sợ cho tính mạng, không 
biết vết thương như thế nào...người đó cứ mải lo mà quên tìm cách tháo 
gỡ mũi tên ra.  Tính chất của lo âu là nó không bao giờ chịu dừng ở hiện
tại mà lại có chiều hướng lẩn quẩn ở quá khứ  hoặc tương lai. Chính vì 
vậy mà sự lo âu ngày càng tăng vì khi tư tưởng lẩn quẩn ở quá khứ và 
tương lai thì ta sẽ không giải quyết được vấn đề và tình trạng vô định 
đó tạo nên cái duyên làm cho lo âu càng lớn dần.
Một khoa tâm lý trị liệu (psychotherapy) trị stress
là Cognitive behavioral psychotherapy, tạm dịch là tâm lý trị liệu qua 
nhận thức. Ta nhận thức ta có những tư tưởng sai lầm dẫn đến sự lo âu 
đau khổ (1), quán xét kỹ càng rằng những tư tưởng đó không có liên hệ ở 
thực tế (2), sau  cùng thay thế vào đó những tư tưởng thích hợp với thực
tại hơn (3). Khi nhận thức thích hợp với thực tại thì ta sẽ tìm được 
biêän pháp giải quyết vấn đề một cách hữu hiệu và từ đó nhẹ gánh lo âu. 
Thí dụ anh A có triệu chứng hay lo (general anxiety disorder).  Khi bị 
chủ sở phê bình, anh về ngủ không được, liên tưởng đến ngày mai mình sẽ 
mất việc, không có tiền trả tiền nhà, vợ anh sẽ bực bội bỏ anh (1)... 
Qua khâu tâm lý trị liệu,  anh kiểm duyệt lại thực tế thì không thấy có 
dấu hiệu nào chủ sở sẽ đuổi anh, chủ anh chỉ muốn anh sửa khuyết điểm 
nhỏ mà thôi, vợ chồng lúc nào cũng hòa thuận(2)... Khi nhận thức như 
vậy, anh cảm thấy yên tâm và hiểu rằng mình có phản ứng quá đáng (3).  
Khi nhìn ở khía cạnh nhân duyên quả, thì khi anh nhận thức rằng cái nhân
sai lầm không quan trọng lắm, không để những tư tưởng lo âu thổi phồng 
sự thật ( nghịch duyên), và anh tìm cách học hỏi trao giồi nghề nghiệp 
thì kết quả sẽ tốt đẹp.  Như thế hiểu được nhân quả thì cuộc sống ta sẽ 
nhẹ gánh lo âu.
Tóm lại
Nhân quả không phải là một khái niệm tôn giáo 
(dogma) mà là một quy luật thiên nhiên (natural law) ảnh hưởng thế giới 
nội tâm và thế giới vật chất. Nhân quả còn là một lực (force) gắn liền 
hai biến cố với nhau qua không gian và thời gian.
Ta khó có thể thay đổi nhân ở quá khứ, nhưng điều 
dễ làm là thay đổi duyên ở hiện tại để quả dử khó có thể biểu hiêän 
được.  Ở thế giới vật chất, duyên lành là bạn tốt, nơi chốn yên tịnh 
(chùa, nhà thờ, hoc đường...).  Ở thế giới tâm lý, duyên lành là ý muốn 
học hỏi, trao giồi trí tuệ, cố giữ lòng nhân từ, bác ái và tha thứ. Gần 
duyên lành thì quả xấu khó thể hiện hoặc thể hiện một cách yếu ớt hơn.
Nếu ta còn giữ tâm tham, sân, si làm nhân  và  nuôi
dươnõg những tư tưởng tham,sân, si (ác duyên) thì không bao giờ biến 
đổi được cuộc sống hay xã hội một cách tốt lành được (quả). Cảnh lúc nào
cũng hiện theo tâm. Người mang tâm xấu lên thiên đàng sớm muộn gì cũng 
biến cảnh thiên đàng thành địa ngục.
Hiểu được nhân quả thì ta nắm giữ được chìa khóa mở
cửa tự do trong đời ta và giúp ta làm chủ lấy cuộc đời.  Không hiểu 
nhân quả thì ta sẽ sống trong mê tín dị đoan hay trong sự lo âu của cuộc
sống vô định, bắp bênh.
Hiểu được nhân quả giúp ta định hướng dễ dàng và có
một hướng đi và một quan niệm sống vững chắc trước mọi hoàn cảnh khó 
khăn.
(sưu tầm từ tác giả Thái Minh Trung)