Cách đây
hơn 20 năm, Fritjof Capra xuất bản cuốn Đạo của Vật Lý (The Tao of Physics).
Cuốn này tức thời nổi tiếng, cả hai giới khoa học và bình dân đều tán thưởng
cuốn sách này. Phản ứng trên thật ra cũng dễ hiểu, vì có thể nói đây là lần đầu
tiên một vật-lý-gia đã viết một cách bình dân dễ hiểu để đưa ra và so sánh khá
nhiều những sự giống nhau giữa những quan niệm mới của khoa vật-lý-học các hạt
nhỏ và triết lý tôn giáo Đông Phương, đặc biệt nhất là Đạo Phật. Sau đó Gary
Zukav xuất bản cuốn Điệu Vũ Của Các Thầy Vật-Lý (The Dancing of Wu-Li Masters),
và Michael Talbot, cuốn Huyền Nhiệm học và Vật-Lý Mới (Mysticism and the New
Physics). Hai cuốn này viết theo đường hướng giống như của Capra nhưng không có
gì đặc biệt hơn, và cũng không nổi tiếng bằng cuốn The Tao of Physics.
Có một điểm chung trong cả ba cuốn sách nêu trên:
muốn giải thích một số hiện tượng trong ngành Vật- Lý các hạt nhỏ ở mức năng
lượng cao (high energy particle physics), các khoa học gia phải nhờ vào những
quan niệm xa xưa của các tôn giáo Đông Phương, nhất là Đạo Phật. Nói cách khác,
triết lý Phật-Giáo đã giúp các khoa học gia giải quyết được một số khó khăn
trong ngành vật-lý mới. Trong khi đó, gần đây, một số phật-tử, có lẽ có mặc cảm
trước những hào quang tiến bộ của khoa học vật chất, lại theo con đường ngược
lại, tìm cách dùng khoa học để "chứng minh" một số quan niệm trong
Phật Giáo, cho rằng như vậy là để làm tăng uy tín của Phật Giáo. Tôi cho rằng
đấy là một hành động ngược chiều.
Trong bài này tôi sẽ cố gắng trình bày để các độc
giả thấy rõ phần nào một sự thực: những căn bản, phương pháp khảo cứu khoa học,
những tiêu chuẩn khảo cứu trong khoa học thực nghiệm v..v.. đều có thể tìm thấy
trong những kinh điển Phật Giáo, chưa kể tới một số thành quả trong khoa học
tân tiến ngày nay chẳng qua cũng chỉ là khám phá lại những điều mà đức Phật và
các đệ tử truyền thừa đã khám phá ra từ hơn 2000 năm về trước. Nhưng trước hết,
có lẽ chúng ta cũng nên duyệt qua vài nhận định về Phật Giáo và Khoa-Học của
một số người có tên tuổi trong cộng đồng quốc tế.
1. Albert Einstein, nhà khoa-học nổi tiếng nhất
thế kỷ 20 về thuyết tương đối trong vật-lý, đã phát biểu như sau:
"Nếu có một tôn giáo nào thích nghi được với
những nhu cầu khoa học tân tiến thì đó là Phật Giáo."
(If there is any religion that would cope with
modern scientific needs it would be Buddhism).
2. Sir Edwin Arnold, người nổi tiếng về cuốn thơ
Ánh Sáng Á Châu (The Light of Asia), khẳng định rằng:
"Tôi thường nói, và tôi sẽ còn nói hoài, là
giữa Phật-Giáo và Khoa- học tân tiến có một mối liên hệ trí thức mật
thiếti."
(I have often said, and I shall say again and
again, that between Buđhism and modern Science there exists a close
intellectual bond.)
3. Bertrand Russell, nhà triết-học và toán-học
nổi tiếng hoàn cầu, trong cuốn Lịch sử triết học Tây Phương (History of Western
Philosophy) đã viết:
"..Phật-Giáo là một tổ hợp của triết lý suy
cứu và triết lý khoa học. Phật Giáo ủng hộ phương pháp khoa học và theo phương
pháp này để tới một cứu cánh có thể gọi là thuần lý. Phật Giáo còn tiếp tục
tiến xa hơn khoa học nơi khoa học không thể tiến thêm vì khoa học bị giới hạn
bởi những dụng cụ vật lý."
(..Buddhism is a combination of both speculative
and scientific philosophy. It advocates the Scientific method and pursues that
to a finality that may be called rationalistic...It takes up where science
cannnot lead because of the limitations of the latter's physical instruments.)
4. Tiến sĩ Radhakrishnan:
"Nếu Phật Giáo hấp dẫn đối với trí óc tân
tiến đó là vì Phật Giáo có tinh thần khoa học, thực nghiệm, chứ không phải là
dựa trên bất cứ tín điều nào"
(If Buddhism appealed to the modern mind it was
because it was scientific, empirical and not based on any dogma.)
5. Tiến sĩ Graham Howe, nhà Phân Tâm Học nổi
tiếng của Anh Quốc. đã nói như sau:
"Đọc một chút về Phật Giáo ta cũng có thể
nhận thức được rằng, từ 2500 năm trước, Phật Giáo đã biết về những vấn đề mới
về tâm lý nhiều hơn là chúng ta thường biết tới. Họ nghiên cứu những vấn đề này
từ lâu và cũng đã tìm ra phương thức giải quyết chúng. Ngày nay chúng ta chỉ
khám phá lại trí tuệ thông thái cổ xưa của Đông phương."
(To read a little Buddhism is to realize that the
Buddhists knew, 2,000 years ago, far more about modern problems of psychology
than they have been given credit for. They studied these problems long ago and
found the answers also. We are now rediscovering the ancient wisdom of the
East.)
Chúng ta hãy tìm hiểu tại sao những nhân vật nổi
danh trên, và nhiều nhân vật khác nữa mà tôi không thể kể hết ra đây, lại đưa
ra những nhận định như vậy.
A) Chúng ta biết rằng đối tượng khảo sát của khoa
vật-lý-học là vật chất. Khi khảo sát vật chất, các khoa học gia thường dùng năm
giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân để biết về những đối tượng của giác
quan như hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác qua sự tiếp xúc, và những thứ
còn lưu lại trong ý thức. Ngoài ra những khảo sát khoa học thường được đặt
trong những khái niệm về thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, thứ tự, và
số lượng, cộng với những dụng cụ đo lường do con người phát minh để đáp ứng
những nhu cầu khảo sát. Nếu chúng ta biết về Duy-Thức Học trong Phật Giáo thì
chúng ta thấy rằng các khoa học gia chỉ dùng có 16 phần trăm của số 100 Pháp
được phân loại thành 8 Tâm Pháp, 51 Tâm-Sở-Hữu Pháp, 11 Sắc Pháp, 24
Tâm-Bất-Tương-Ưng Hành Pháp, và 6 Vô-Vi Pháp (Xin đọc Đại-Thừa Bách Pháp Minh
Môn Luận), nghĩa là các khoa-học-gia chỉ xử dụng tới 11 Sắc Pháp trong đó có 5
căn là nhãn căn, nhĩ căn, tỉ căn, thiệt căn, và thân căn (mắt, tai, mũi, lưỡi,
và thân thể); và 6 trần là sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần,
và Pháp trần (hình tướng, âm thanh, mùi, vị, cảm giác do tiếp xúc, và bóng dáng
của 5 trần trên còn lưu lại trong ý thức khi các căn không còn tiếp xúc trực
tiếp với trần nữa), cộng với 5 tâm pháp trong số 21 tâm-bất-tương-ưng hành pháp
là thời gian, phương hướng, vận tốc di chuyển, số lượng, và thứ tự (thời,
phương, thế tốc, số, và thứ đệ). Ở đây tôi không có ý định đi sâu vào thiên
luận 100 Pháp đại thừa mà chỉ muốn nói lên điểm cốt yếu như sau: khi mà khoa
học không thể tiến hơn được nữa vì những giới hạn tự tại của 5 căn 6 trần và
của những dụng cụ đo lường thì Phật Giáo vẫn tiếp tục đi xa hơn, bởi lẽ Phật
Pháp, ngoài sự khảo sát những đối tượng vật chất còn chú trọng nhiều đến những
vấn đề tâm linh, cho nên đã vượt qua, đi ra ngoài những giới hạn vật lý của
khoa-học. Do đó chúng ta có thể nói Phật Giáo là một Siêu-Khoa-Học
(Super-science) được thành lập trên căn bản trí tuệ Bát Nhã (trí tuệ nhận thức
được thực tướng của vạn Pháp). Trong Phật Giáo, Duy-Thức Học cho chúng ta một
hệ thống triết lý, phân tâm học rất đầy đủ và tiến bộ hơn bất cứ hệ thống nào
trong khoa học hiện đại.
B) Nếu chúng ta đã quen với cách viết một bản phúc
trình khoa học thì chúng ta thấy rằng, ngay ở phần đầu của bản phúc trình chúng
ta phải liệt kê những điểm sau đây: tên người phụ trách chính và các phụ tá nếu
có, thời gian và nơi làm thí nghiệm, đối tượng của thí nghiệm, những vật liệu
và dụng cụ máy móc dùng để làm thí nghiệm, trước khi viết phần chính của bản
phúc trình. Điều này hầu như là một mẫu mực chung trong giới khoa học.
Nay ta thử đi vào cấu trúc của các kinh điển Phật
Giáo.
Tất cả kinh Phật đều được bắt đầu bằng một phần
thông tự mà ngay đầu tiên là 6 điều tin chứng hay 6 điều thành tựu
(lục-chủng-chứng-tín hay lục-chủng-thành-tựu): Tín, Văn, Thời, Chủ, Xứ, Chúng.
Muốn hiểu rõ hơn chúng ta hãy lấy một thí dụ: Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Kinh Lăng
Nghiêm bắt đầu bằng: "Tôi nghe như vậy, một thời nọ, Phật ở tại tịnh xá Kỳ
Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng 1250 đại Tỳ Khưu ..." "Như vậy"
biểu thị một khẳng định đáng tin (Tín), "Tôi nghe" biểu thị nguồn gốc
của sự hiểu biết (Văn), "Một thời nọ" chỉ định thời gian tính (Thời),
"Phật" chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị hóa chủ của đại chúng và là
người thuyết Kinh (Chủ), "Tại ..." chỉ nơi thuyết Kinh (Xứ),
"Cùng với ...." chỉ những người nghe Phật thuyết Kinh (Chúng). Như vậy,
phần thông tự chứng tỏ tính chất xác thực của Kinh, và 6 điểm kể trên đã dự
phần bố trí hệ thống của toàn Kinh và biện chứng để dẫn khởi lòng tin tưởng của
người học Phật, cho nên được gọi là 6 điểm thành tựu. Cái tinh thần chính xác,
rõ ràng, minh bạch của Kinh Phật cũng là cái tinh thần mà các khoa học gia ngày
nay đòi hỏi phải hội đủ trong bất cứ một công cuộc thí nghiệm nào.
C) Đi thêm vào chi tiết, nếu chúng ta đọc cuốn
huấn thị cho khoa học (Instruction Book of Science) chúng ta thấy phương pháp
khảo cứu khoa-học được đặt trên một số tiêu chuẩn như sau:
1. Đối tượng của thí nghiệm (The objects of the
experiment)
2. Vật liệu, dụng cụ cần thiết để làm thí nghiệm
(The materials, instruments and tools necessary for the experiment)
3. Lý thuyết về thí nghiệm (The theory of the experiment)
4. Phương pháp và tiến trình thí nghiệm (Methods
and steps to work out the experiment)
5. Kết quả thí nghiệm (Results of the experiment)
6. Những điều cần để ý và coi chừng khi làm thí
nghiệm (Requisites for attention and precautions in working out the
experiment)
7. Kết luận để kiểm chứng giá trị của lý thuyết
và những kết quả thực dụng của nó (Conclusion to verify the validity of the
theory and its practical results)
Đọc Kinh Lăng Nghiêm, chúng ta thấy trong Kinh có
những phần sau đây:
1. Nguyên nhân Phật thuyết Kinh (Phần Thông Tự)
2. Đối tượng của tu chơn-tâm (7 thường trụ xứ của
Tâm)
3. Lý thuyết tu chơn-tâm (Chỉ rõ Tính Thấy, Tóm
thu 4 Khoa và 7 Đại về Như-Lai Tạng để phát khởi chỗ chơn-ngộ)
4. Phương pháp và các trình độ tu chứng (25
phương pháp viên thông và 7 Thánh vị).
5. Lợi ích của sự tu tập, đối với cá nhân và
chúng sinh (Tuyên nói Tâm Chú, khai thị những lợi ích)
6. Những điều cần để ý và coi chừng khi tu tập
(Khai thị chỗ hư vọng của 7 loài để khuyến khích tu hành chánh Pháp và phân
biệt các Ấm ma)
7. Kết luận (Phần lưu thông, công đức trì Kinh,
được Phúc, tiêu tội, trừ ma)
Chúng ta có thể thấy ngay những điểm giống nhau
về phần cấu trúc của cuốn huấn thị về khoa học và của cuốn Kinh Phật.
Làm bảng so sánh trên, tôi không có ý định chứng
tỏ Khoa Học và Phật Giáo giống nhau cả về hình thức lẫn nội dung, mà chỉ muốn
tỏ rõ một điều: Kinh Phật được xếp đặt một cách rất khoa học. Điều này thật ra
cũng dễ hiểu, vì những phương pháp tu tập trong Phật Giáo và những phương pháp
khảo cứu khoa học đều đặt trên những căn bản giống nhau:
1. Không để cho tình cảm chi phối.
2. Hoàn toàn khách quan.
3. Phân tách mọi vấn đề một cách có hệ thống.
4. Kết quả dựa trên thực nghiệm.
Ngoài ra Jeremy W. Hayward, một vật-lý-gia nổi
tiếng về những thuyết trình của ông về Phật Giáo và tương quan của Phật Giáo
với những truyền thống Tây Phương và khoa học, trong cuốn Shifting Worlds,
Changing Minds: Where the Sciences and Buddhism Meet cũng đưa ra 4 tiêu chuẩn
mà một hệ thống tín ngưỡng cần hội đủ để cho con người có thể chấp nhận với một
tinh thần khoa học. Tôi không có ý định bàn luận về những tiêu chuẩn này nên
không đi vào chi tiết, mà chỉ liệt kê sau đây 4 tiêu chuẩn của Hayward:
1. Ý thức được sự tương đối của các hệ thống tín
ngưỡng và sự tương quan giữa "vũ trụ" và "tâm".
2. Có thể vạch rõ chi tiết về sự hiện hành của
"tâm" và "thực tại", nghĩa là có thể đưa ra một lý thuyết
duyên khởi về sự biểu hiện của những đối đãi nhị nguyên trong phạm trù nhất
nguyên.
3. Có một kỹ thuật, phương pháp để thực chứng
chân lý "Không hai" này.
4. Nhưng cùng lúc không nằm ngoài vòng đối đãi
nhị nguyên.
Và, Hayward
chứng tỏ rằng Phật Giáo đã hội đủ 4 tiêu chuẩn trên.
Chúng ta đã thấy, khoa-học và Phật-Giáo có nhiều
điểm giống nhau. Nhưng thực ra thì đó chỉ là giống nhau phần nào về phương diện
hình thức, còn căn bản thì vẫn khác nhau, vì đối tượng của khoa học khác với
đối tượng của Phật Giáo. Kiến thức khoa học là về thế giới bên ngoài, đặc biệt
là thế giới vật chất, cho nên bị buộc trong không gian và thời gian. Trong khoa
học, cho tới bây giờ, chân lý chưa đạt được, vì khoa học luôn luôn thay đổi để
phù hợp với những hiểu biết mới của con người. Khoa học chỉ có thể cung cấp cho
con người những dữ kiện tương đối. Trái lại, trong Phật Giáo, chân lý đã được
thể hiện và có tính cách tuyệt đối, bởi vì Phật Giáo chú trọng đến cái
"biết" bên trong do thực chứng. Phật Giáo đi thẳng tới chân lý tuyệt
đối chứ không cần qua ngả các phát minh tương đối. Do đó, nhiều khoa-học-gia đã
đồng ý rằng: Phật Giáo bắt đầu nơi khoa học tận cùng (Buddhism begins where
science ends.) Khoa học có thể cung cấp cho chúng ta những tiện nghi thoải mái
vật chất và trí thức, nhưng không phải là chân lý, vì bản chất tương đối tự tại
của khoa học. Chỉ khi nào con người tiếp xúc được với tuyệt đối và sống trong
chân lý, khi đó con người mới có thể có được chân hạnh phúc, một thứ hạnh phúc
vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị nguyên. Và đây chính là cứu cánh chung cùng của
Phật Giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sir Edwin Arnold, "The Light of Asia", The Theosophical
Publishing House, Illinois, USA,
1971.
2. Wang Chi Buu, "A Scientist's Report on Study of Buddhist
Scriptures", Published by the Corporate Body of the Buddha Educational
Foundation, Taipei, Taiwan R.O.C.
3. Fritjof Capra, "The Tao of Physics", Shambhala, Boulder, 1975.
4. K. Sri Dhammananda, "Great Personalities on Buddhism", B.M.S.
Publication,
Malaysia,
1965.
5. Thích Nhất Hạnh, "Vấn Đề Nhận Thức Trong Duy Thức Học",
Phật-Học-Viện Quốc Tế, Sepulveda, CA., 1980.
6. Jeremy W. Hayward, "Shifting Worlds, Changing Minds: Where the
Science and Buddhism Meet", Shambhala, Boston
& London,
1987.
7. Thích Thiện Hoa, "Phật Học Phổ Thông, Khóa thứ VI-VII và IX",
Phật-Học-Viện Quốc-Tế, Sepulveda, CA., 1981.
8. Hsuan Hua, "Shastra on the Door to Understanding the Hundred
Dharmas", Talmage, CA. 1983.
9. Tâm Minh, "Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm", Phật-Học-Viện Quốc-Tế,
Sepulveda, CA., 1981.
10. Robert Powel, "Zen and Reality", The Viking Press, New York, 1974.
11. Michael Talbot, "Mysticism and The New Physics", Bantam Books,
1981.
12. Gary Zukav, "The Dancing Wu-Li Masters", Bantam Books, 1979.