Có
thể người ta không chấp nhận những thiên kiến của các tôn giáo về việc
luận giải cấu trúc đời sống, song không thể không công nhận những sư
tương hợp giữa đời sống khoa học và tâm linh. Lấy con mắt của nhà Phật
để soi rọi quan điểm khoa học tự nhiên là một điều không dễ dàng và đôi
lúc gây ra những sự ngộ nhận, nhưng tác giả của bài viết này quan niệm
rằng, tất cả những gì đã hiện sinh quanh ta đều là những điều kỳ diệu
đáng yêu mà ta không nên cố chấp. Biết thì nói, thấy thì chỉ, lắng nghe
và thấu hiểu nhau cũng là một cách làm cho chúng ta gần gũi nhau hơn.
Đơn
vị cơ sở cấu thành nên toàn vũ trụ chính là nguyên tử mà sự phát hiện
ra nó đã soi rọi cho khoa học những ánh sáng và cái nhìn khái quát hơn
về một thế giới toàn nguyên. Nó bác bỏ tất cả những gì thuộc về lý
thuyết suông và thần thanh của các trường phái triết học cổ đại. Từ cái
thuở cho rằng vũ trụ hình thành nên nhờ “ngũ hành”,
kim-mộc-thủy-hỏa-thổ, rồi thì cho rằng Chúa nặn ra thế giới trong vòng
sáu ngày.... cho đến nay tất cả đã được làm sang tỏ hơn nhờ thuyết
nguyên tử và một bộ môn mới của vật lý hiện đại - cơ lượng tử đã ra đời.
Tuy nhiên, chúng ta không thể bác bỏ sạch trơn những học thuyết cổ đại
vì phần nào trong số đó có những đóng góp không nhỏ. Tôi muốn nói đến
Phật giáo, một trường phái triết học ra đời sớm với những lý giải sâu
sắc và hiện thực được ghi lại qua các bộ kinh mà những đệ tử của Đức Bổn
Sư đã kịp ghi lại. Cho đến nay, Phật giáo đã vượt ra khỏi khuôn khổ của
một tôn giáo, trở thành một lĩnh vực không thể thiếu khiến mỗi khi khoa
học khó khăn đều có thể nhờ đến.
Hạt nguyên tử kia bé nhỏ thế nhưng
Đức Phật đã nhìn thấy được từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Ngài goi
đó là các nhân duyên mà bao giờ nhân duyên hội đủ thì nó có. Thuyết
duyên hợp ấy được ghi lại trong hai hệ thống kinh A Hàm và Tăng Chi Bộ:
"Cái
này có nên cái kia có
Cái này sanh nên cái kia sanh
Cái này diệt
nên cái kia diệt...”
Cũng chính những nhân duyên rất nhỏ mà sau
này giới khoa học đặt cho cái tên Nguyên tử (Atom) ấy đã hình thành nên
một cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Những hạt nguyêt tử nhỏ bé như là những
vị sứ giả nhà Phật đã mang đến cho ta những bức thông điệp giá trị.
Những bức thông điệp khoa học, đời sống cho bạn, cho tôi, cho tất cả mọi
người mà hôm nay tác giả có dịp tâm sự.
Quỹ đạo electron -
những vòng quay luân hồi
Nhà vật lý Nils Bor đã đưa ra giả
thuyết về quỹ đạo hành tinh của các electron trong nguyên tử có dạng
đường tròn với tâm tại hạt nhân nguyên tử. Những vòng tròn quỹ đạo mà
trên đó các electron như những chàng thi sĩ lang thang đi tìm kiếm câu
thơ, khép lai thành một chu trình kín. Chính nhờ hình dạng này nên trong
điều kiện không bị các tác nhân kích hoạt, nguyên tử giữ được đầy đủ số
điện tích của mình. Chuyển động hay đứng yên chỉ có tính tương đối, ở
đây nếu ta chọn hệ quy chiếu gắn với gốc là hạt nhân đứng yên (điều này
có thể vì hạt nhân vốn nhỏ hơn rất nhiều so với kích thước nguyên tử nên
có thể coi hạt nhân như “chất điểm”) khi đó các electron quay xung
quanh gốc với những vòng tròn với ban kính xác định theo công thức
Rn
= h2 n2 / me2z
Ở đây h là hằng số Plank, n - chỉ số quỹ đạo
electron, m và e lần lượt là khối lượng và điện tích electron, Z là số
hiệu nguyên tử.
Ta có thể nhìn nhận những vòng tròn quỹ đạo kia chính
là quy luật luân hồi theo quan điểm nhà Phật mà sự khép kín của nó đủ
để diễn tả tất cả. Ta biết rằng, những electron nằm được ở những quỹ đạo
cố định là nhờ lực liên kết với hạt nhân, chính lực kia là nhân duyên
giúp nó tồn tại và có mặt ở trên đó để hình thành nên vòng luân hồi. Nếu
không có sự hấp thu hay bức xạ năng lượng thì chúng cứ yên vị mãi trên
quỹ đạo ấy, ta có thể nói khi ấy nhân duyên đã hội đủ nên chúng “có
mặt”. Trường hợp có tác nhân lực tác động vào thì nhân duyên cũ bị phá
vỡ để hình thành nên những nhân duyên mới, tức electron sẽ chuyển sang
quỹ đạo khác với mức năng lượng tương ứng được tính theo công thức.
En
= - me4 Z2 /2h2 n2
Nhìn nhận theo quan điểm “Thập nhị nhân duyên”,
với một sự thay đổi của nguyên nhân (Nhân) thì kéo theo cả một sự thay
đổi lớn về kết quả (Quả), quá trình thay đổi nhân gọi là “tạo nghiệp” và
dẫn đến sự thay đổi quả gọi là “tác nghiệp”, trong đó làm biến đổi hẳn
nhân duyên. Song dù ở bất kỳ quỹ đạo nào thì vòng quay vẫn khép kín,
nghĩa là sự luân hồi không bị phá vỡ.
Từ công thức năng lượng trên,
có thể thấy rằng mối quan hệ giữa chỉ số quỹ đạo và mức năng lượng tương
ứng là tỷ lệ thuận (một dấu trừ cùng với một phép nghịch đảo là một
phép toán đồng quan). Nghĩa là các electron càng gần hạt nhân thì năng
lượng càng thấp, tức nó bị liên kết mạnh. Nếu xem các electron như những
cá thể người vận hành trên quỹ đạo cuộc đời ta sẽ thấy một điều rất thú
vị. Lực liên kết giữa electron với nhân như là cái nghiệp níu giữ con
người với cái tôi bản thể, sự tu học và thiền quán tạo ra năng lượng mà
nếu hấp thụ càng nhiều thì sẽ càng được xa rời cái tôi, cũng như
electron nếu được nhận được năng lượng kích hoạt sẽ chuyển sang những
quỹ đạo cao hơn và đến lúc có thể vượt khỏi sự liên kết với nhân - ấy là
lúc con người đạt đến đạo giải thoát. Nhìn như thế thì các electron
trông thật giống con người, chúng cũng có linh hồn và tri thức để hiểu
rõ rằng, cần phải tận dụng những sự chuyên tu trên vòng quay hiện tại để
tiếp nhận nguôn năng lượng mà vượt thoát - đó là định luật cơ bản của
hiệu ứng photon.
Với góc nhìn này, có thể phân cấp con người ra nhiều
hạng tương ứng với quá trình tạo nghiệp của họ. Những ai ít chuyên tu
thì giống những electron quỹ đạo gần hạt nhân nhất, tức là luôn bị trói
buộc và thấy thiếu tự do. Những ai siêng năng học tập trau giồi thì
giống những electron ở lớp ngoài, nhờ công hạnh mà được chuyển lên những
cấp độ cao hơn và thấy an lạc. Còn vơi bậc giác ngộ như Đức Phật thì có
thể xem là electron đã vượt thoát khỏi lực hạt nhân, chính vì thế mà
Ngài luôn cảm thấy tự do và không bị níu giữ trói buộc bởi bất kỳ thứ gì
ở đời cả.
Hiệu ứng đường ngầm - sự vượt thoát kỳ diệu
Bài
toán lượng tử một chiều dựa trên vệc giải phương trình Schordinger dẫn
đến những dạng khác nhau của hố thế năng. Một trong những số các hố đó
có tính chất quan trọng là hố thế năng ba phần (U1, U, U2) tạo ra một
hàng rào chắn (Barie). Trong lý thuyết cổ điển, khi U>E thì các phần
tử đến phía bên trái (U1) không thể có mặt ở phía bên phải (U2) tức là
không thể vượt qua được hàng rào chắn (U), ở đây các giá trị U1, U, U2
gọi là các mức độ sâu của hố còn E là năng lượng toàn phần. Thế nhưng
trong thuyết lượng tử thì điều ấy hoàn toàn có thể, nó được gọi là hiệu
ứng đường ngầm (tunnel effect) do hai nhà vật lý L.I. Mandestam và M.A.
Leontovich đưa ra năm 1927. Việc xuất hiện giả thuyết hiệu ứng đường
ngầm đã giải thích được nhiều hiện tượng vật lý và nó ứng dụng rộng rãi
trong việc chế tạo các dụng cụ vi mô.
Về khía cạnh Phật giáo, ta có
thể xem các phần tử này như là các sinh linh mà việc hấp thụ đủ năng
lượng như là công hạnh để vượt thoát qua khỏi hàng rào ngăn - các chướng
ngại đời sống. Nhìn nhận ở góc độ đó, công năng tu tập của các phần tử
sẽ tương ứng với khả năng và mưc độ của sự “giải thoát”. Các phần tử nào
có đủ năng lượng thì sẽ chui qua được hàng rào, năng lượng càng cao thì
tốc độ qua càng nhanh và dễ dàng. Điều này dễ hiểu bởi nó không chỉ là
nguyên tắc vật lý mà còn là quy luật ở đời. Việc học đạo cũng thế, nếu
chuyên tâm tu dưỡng để tạo tánh tốt thì con đường giải thoát sẽ thuận
lợi và sớm được “giác ngộ” hay là vượt qua những rào cản (barie) của
nghiệp chướng.
Nếu lấy thuyết Sắc - Không của nhà Phật ra mà lý giải
cho bài toán hố lượng tử trong trường hợp này ta sẽ thấy được sự kỳ diệu
của môn cơ lượng tử. Việc các phần tử đi qua hàng rào cấm đã làm vô
hiệu hóa hàng rào này, vậy là hàng rào có cũng như không. Thế nhưng mức
thế năng U của hàng rào lại ảnh hưởng nhiều tới việc có cho phần tử đi
qua hay không và ở mức độ nào. Như đã nói ở trên, hiệu ứng chui đường
ngầm xảy ra khi U>E nên nó phụ thuộc vào thế năng U của hàng rào, vậy
là ta coi hàng rào như không nhưng giờ lại thành có. Ấy chính là thuyết
Sắc-không-tức-thị của nhà Phật, có đó mà không đó, biến hóa vô thường.
Những
cuộc đến cuộc đi trên cái hành trình đời sống khiến con người ta ngộ ra
được những tri thức kỳ diệu. Sự vận động trong thế giới vi mô lại càng
kỳ diệu thay bởi ở đó ta tưởng chừng như chúng vô duyên cớ nhưng thực tế
lại có rất nhiều điều bí ẩn. Ở chỗ ấy sự giao thoa đã nảy sinh giữa
nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí có thể nói là trái chiều. Thế nhưng
bài học của Don Juan khiến tôi vững tâm hơn, rằng “mỗi con đường chỉ là
một lối đi và cũng không ảnh hưởng gì đến mình hay đến ai nếu phải từ bo
nó, một khi trái tim buộc bạn phải làm thế... Hãy quan sát con đường kỹ
lưỡng và chính xác. Và hãy tự hỏi mình, chỉ chính mình thôi... Đó là
một con đường của trái tim? Nếu phải thì đó là một lối đi tốt đẹp; nếu
không nó chỉ vô ích” (theo Đạo của vật lý, bản dịch tiếng Việt của
Nguyễn Tường Bách). Chính con đường ấy đã đưa khoa học và tôn giáo lại
gần nhau hơn, cũng như đưa thế giới về một mối đồng nhất có thể. Nó giúp
ta tiến xa hơn trong mọi lĩnh vực và dễ dàng có được những bước tiến
nhanh như cuộc vượt thoát của nguyên tử.
HOÀNG CÔNG DANH