I. DẪN NHẬP
Việt Nam là nước có nền văn hiến lâu
đời. Lịch sử thường nhắc đến bốn nghìn năm văn hiến. Trước khi đạo Phật
truyền vào Việt Nam, ở đây đã tồn tại nền văn hóa, tín ngưỡng bản địa.
Khác với các tôn giáo Thần khải, Phật giáo truyền đến đất nước nào không
bao giờ xóa sổ nền văn hóa, tín ngưỡng ở đất nước đó. Trái lại, hòa
nhập vào nền văn hóa đó, sống chung hòa bình với nó, làm mới nó và thậm
chí nâng nó lên thành một nền văn hóa, tín ngưỡng khởi sắc hơn bằng cách
đưa triết lí Phật giáo làm cơ sở lí giải cho nó; đồng thời dung hóa nó,
làm thành một thứ Phật giáo bản địa- Phật giáo mang sắc thái Việt Nam.
Đồng thời với Phật giáo, các tôn giáo
như Khổng giáo, Lão giáo cũng được truyền vào Việt Nam. Phật giáo và các
tôn giáo này cũng không hề xung đột, loại trừ nhau, mà nương tựa vào
nhau, bổ sung cho nhau và cùng tồn tại.
Sự giao lưu ảnh hưởng giữa Phật giáo,
tín ngưỡng bản địa, Khổng giáo và Lão giáo đã tạo ra nền văn hóa, tín
ngưỡng Việt Nam phong phú và đa dạng.
Mức độ giao lưu tiếp biến và đan xen
giữa các tôn giáo và tín ngưỡng trên diễn ra mạnh mẽ và sâu rộng đến
nổi, có những hội lễ, tập tục có nguồn gốc từ tín ngưỡng của tôn giáo
này lại thấy có mặt ở tôn giáo kia và ngược lại.
Trong Phật giáo hiện nay có hàng mấy
mươi nghi thức, hội lễ và tập tục có nguồn gốc từ dân gian và các tôn
giáo khác. Trong tín ngưỡng dân gian và tôn giáo khác cũng có hàng mấy
chục nghi thức, hội lễ, tập tục có nguồn gốc từ Phật giáo.
Qua thời gian, có những hội lễ, tập tục
của tôn giáo này lại chỉ còn tồn tại ở tôn giáo khác.
Dưới đây chúng ta tìm hiểu một tập tục
của Phật giáo có nguồn gốc từ Lão giáo và sau đó đi vào tín ngưỡng dân
gian. Đó là tập tục cúng Sao Hạn.
II. NGUỒN GỐC TẬP TỤC CÚNG SAO
HẠN
Cúng sao hạn là tập tục đã tồn tại lâu
đời trong dân gian. Tập tục này có nguồn gốc từ Lão giáo. Sao hạn được
tính căn cứ trên học thuyết ngũ hành xung khắc. Theo sự vận chuyển của
ngũ hành, mỗi năm có môt vì sao chiếu mạng vào một tuổi của từng người.
Còn hạn là niên hạn, là cách thức riêng ứng với sao chiếu mạng là tốt
hay xấu.
Tuy bắt nguồn từ Lão giáo ở Trung Hoa,
nhưng tập tục này lại ăn sâu vào quan niệm của người dân Việt và trở
thành một tập tục lâu đời của người Việt. Người Việt tin rằng, mỗi năm
có một vì sao cai quản, có sao tốt có sao xấu. Nếu gặp sao xấu, người ta
phải cúng sao giải hạn để được an lành. Có tất cả chín vì sao chia nhau
cai quản con người và tám niên hạn. Chín vì sao là: La Hầu, Thổ Tú,
Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Âm, Thái Dương, Kế Đô, Mộc Đức, Vân Hớn. Tám
niên hạn là: Huỳnh Tuyền, Tam Kheo, Ngũ Mộ, Thiên Tinh, Toán Tận, Thiên
La, Đại Võng, Diêm Vương.[1]
Từ Lão giáo qua dân gian rồi đi vào Phật
giáo, nhưng ngày nay, tập này được xem như tục tập của Phật giáo. Đoán
sao, đoán hạn và cúng giải sao hạn ngày nay hầu hết là diễn ra ở các
chùa.
III. BÌNH GIẢI
1. Mặt Tích Cực
Cúng sao giải hạn là tập tục đã tồn tại
lâu đời và ăn sâu trong tâm thức đại đa số người Việt Nam. Tập tục này
có nguồn gốc Lão giáo, nhưng ngày nay nghiễm nhiên trở thành tập tục của
Phật giáo. Bởi lẽ, ngày nay cúng sao giải hạn đa số là diễn ra ở các
chùa, người đứng ra tổ chức cúng sao giải hạn là qúy thầy và đại đa số
quần chúng cũng nghĩ rằng đây là tập tục của Phật giáo, ít ai nghĩ rằng
nó có nguồn gốc từ Lão giáo, được dân gian hóa và rồi ảnh hưởng đến Phật
giáo. Một số người vội phê phán, bài bác cho đây là hủ tục, là mê tín
dị đoan. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, hầu hết 80 phần trăm dân số Việt
Nam theo Phật giáo và cả một số tín đồ Cao Đài, Hòa Hảo, những người
lương đều có tin vào sao hạn. Muốn bỏ tập tục này đi không phải một ngày
một buổi và không phải dễ bỏ. Không phải nói bỏ là bỏ được. Chúng ta
thường cho rằng triết lí Phật giáo là cao siêu, màu nhiệm, cần gì đế
nhũng tập tục kia. Nhưng chúng ta không biết rằng, đại đa số dân chúng
Việt Nam trình độ còn thấp. Hơn thế nữa, đây là tập tục có từ ngàn xưa
của ông cha họ, họ khó có thể bỏ. Ông cha họ đã tin, họ làm theo. Không
theo họ vô tình chống lại tổ tiên họ. Toan Ánh có đưa ra ý kiến “Dù
sao chúng ta cũng nên nhớ rằng tiền bối chúng ta vẫn tin theo sao và
niên hạn, còn ngày nay tin hay không tin tùy ở chúng ta. Tin thì tin,
không tin chúng ta cũng chớ nên báng bổ ông cha chúng ta.”[2]
Phật giáo có thế mạnh là có đầy đủ cả
hai mặt lý và sự. Chúng ta khi hoằng dương Phật pháp muốn thành công
phải vận dung cả hai mặt này. Trên phương diện triết lí, học thuật và lí
luận, chúng ta nghiêng về lí. Nhưng trên phương diện tín ngưỡng quần
chúng, chúng ta phải nghiêng về sự. Lí sự phải viên dung. Tổ Bồ Đề Đạt
Ma chú trọng về lí nên cuộc đối thoại giữa Ngài và vua Lương Võ Đế đã
thất bại. Các nhà truyền giáo Kyto đã thất bại ở Trung Quốc và một số
nước phương Đông vì họ chống lại phong tục tập quán của người phương
Đông. Thấy được khuyết điểm này, qua Tông Huấn Á Châu của giáo
hoàng Gioan Phao Lồ II và Thần Học Theo Cung Cach Á Châu của
Tống Tuyền Thịnh, họ đã thay đổi chiến lược truyền giáo, bằng cách chấp
nhận phong tục tập quán ở xứ sở này. Đây là bài học kinh nghiệm cho Phật
giáo.
Các tôn giáo như Hồi giáo, Bà La Môn
giáo, Kyto giáo chỉ nhờ nghi lễ mà nâng số lượng tín đồ lên cao một cách
khủng khiếp. Phật giáo do qúa chú trọng về triết lí và học thuật mà
không tranh thủ được nhiều tín đồ như các tôn giáo trên. Trong khi phần
nghi lễ Phật giáo rất đa dạng phong phú. Chúng ta cần phát huy thế mạnh
này hơn nữa vào công cuộc truyền bá Phật pháp. Cúng sao hạn là một trong
những hình thức giúp chúng ta lôi kéo số lượng tín đồ về phía Phật
giáo.
Chúng tôi đã từng thấy một thực trạng
rằng, trong một cuộc thuyết pháp, số lượng người tham dự không đông bằng
một cuộc cúng sao Hội. Hằng năm, ở mỗi một chùa có tới hàng ngàn gia
đình đến cúng sao giải hạn. Danh sách đọc từ bảy giờ tối tới mười một
giờ khuya chưa hết. Có chùa, danh sách cúng sao hạn đọc mấy ngày chưa
hết.
Vì sao có thực trạng đó? Vì việc cúng
sao liên quan trực tiếp đến sức khoẻ và công cuộc làm ăn của nhiều
người. Trong khi nghe thuyết pháp thì lại kén chọn đối tượng hơn. Nó tùy
thuộc vào căn cơ, chủng tánh và trình độ của mỗi người. Có người nghe
hiểu có người nghe không hiểu. Có người nghe một cách say mê thích thú,
có người nghe ngủ gật, có người nghe hiểu để ứng dụng vào đời sống cho
có an vui hạnh phúc, có người chỉ thỏa mãn tri thức mà thôi. . . . Do
đó, hoằng dương Phật Pháp phải nắm vững tâm lí quần chúng này. Nếu không
chú ý đến tâm lí quần chúng, công cuộc hoằng pháp dễ bị thất bại.
Chính vì vậy, cho rằng cúng sao hạn là
mê tín, là sai cũng chưa hẳn. Chúng ta biết rằng, cúng sao giải hạn là
tập tục có nguồn gốc từ Lão giáo, nhưng khi cúng sao hạn chúng ta không
dùng kinh, nghi thức của Lão giáo để cúng mà dùng kinh Phật giáo, nghi
thức Phật giáo. Đây là dịp tốt để cho những ai chưa phải Phật tử được
nghe lời kinh tiếng kệ, tiếng mõ tiếng chuông mà thức tỉnh tâm hồn.
Những ai đã là Phật tử rồi có dịp ôn lại lời kinh tiếng kệ để việc học
Phật, tu Phật càng vững chãi hơn, tinh tấn hơn. Hơn thế nữa, qua việc
cúng sao giải hạn chúng ta có điều kiện, có cơ hội để tiếp cận, gần gũi
quần chúng, giúp cho họ những điều họ cần. Đồng thời qua việc đoán sao
hạn, chúng ta có dịp khuyên họ làm lành lánh dữ, đi chùa tụng kinh lạy
Phật, bố thí cúng dường . . . Chẳng hạn, một người nào đó năm đó gặp sao
xấu, hạn xấu, ta khuyên người đó năm nay nên làm phước, cúng dường Tam
Bảo, ăn chay mỗi tháng mấy ngày, bố thí cho người nghèo . . . thì tai
ách sẽ thuyên giảm, tiêu trừ. Lời khuyên ấy chắc chắn Phật tử và người
dân địa phương sẽ nghe và sẽ thực hiện. Điều ấy, một người có uy quyền
chưa chắc khuyên được, nhưng qúy thầy với ngôn ngữ Từ Bi, ái ngữ sẽ
khuyên được.
Thực tế, nhiều người khi được cúng sao
giải hạn và làm lành, làm phúc, bố thí, cúng dường rồi, đã thấy khỏe
hơn, làm ăn phát đạt hơn và từ đó tin tưởng vào Phật pháp hơn, về chùa
thường hơn. Và đây là cơ hội tốt để qúy thầy có dịp tiếp tục hướng dẫn
họ tu tập, gieo trồng hạt giống tốt, gieo duyên với Phật pháp. Và từ đó,
cánh cửa đi vào Phật pháp với họ không còn cách xa nữa.
Đạo Phật đã truyền vào Việt Nam hơn hai
ngàn năm qua. Từ khi có mặt ở đất nước này, đạo Phật đã ăn sâu, thâm
nhập vào tâm thức quần chúng, đã ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt văn hóa xã
hội, nghệ thuật, kiến trúc . . .có thời đạo Phật quốc giáo, chiếm địa vị
độc tôn như thời Lý - Trần. Nhưng do tinh thần tùy duyên, tinh thần bao
dung, đạo Phật không bao giờ xóa bỏ văn hóa, tín ngưỡng bản địa hay bài
bác tôn giáo khác. Trái lại đạo Phật đã dung hóa tín ngưỡng bản địa,
đưa hệ thống tín ngưỡng này lên một tầm mức cao hơn. Hệ thống tứ Pháp
thờ tại chùa Pháp Vân ở miền Bắc là một điển hình cụ thể. Qua hệ thống
này, đạo Phật Ấn Độ đã biến thành đạo Phật Việt Nam, Phật Pháp Vân được
người dân Việt xem như đức Phật lập nên nền tín ngưỡng Phật giáo Việt
Nam. Các tôn giáo như Lão giáo, Khổng giáo cũng được đạo Phật tiếp thu,
dung hóa, cùng tồn tại phát triển và đã làm nên hệ thống Tam giáo đồng
nguyên đặc thù ở Việt Nam.
Tinh thần dung hoá, không kỳ thị tín
ngưỡng, tôn giáo khác đã làm cho đạo Phật được truyền bá khắp nơi, tác
động, ảnh hưởng đến các tín ngưỡng khác, tôn giáo khác. Điều này trong
sinh họat tín ngưỡng tôn giáo Việt Nam chúng ta thấy rất rõ. Đình miếu
có hội lễ bao giờ cũng có mời các nhà sư Phật giáo đến tụng kinh cầu an,
chẩn tế cầu quốc thái dân an . . . Các Nho gia xưa kia, do nhiễm học
thuyết của Chu Đôn Di và Trình Di nên ganh tị, chống đối Phật giáo nhưng
về già rồi cũng qui hướng Phật cả. Các Nho sĩ như Trương Hán Siêu, Chu
Văn An thời trẻ có ác cảm với Phật giáo, nhưng rồi cuối cùng cũng trở về
sống an nhiên nơi cảnh chùa chiền. Ngược lại, khi giao lưu, dung hóa,
Phật giáo cũng ảnh hưởng, tiếp thu từ các tín ngưỡng, tôn giáo trên các
phong tục, các giá trị nhân sinh quan, làm phong phú thêm cho kho tàng
tín ngưỡng Phật giáo, đưa Phật giáo đồng hành cùng dân tộc. Việc tiếp
thu tập tục cúng sao hạn từ Lão giáo qua dân gian rồi ảnh hưởng tới Phật
giáo là một minh chứng cho sự dung hóa, tiếp thu tín ngưỡng, tôn giáo
khác của Phật giáo.
Ngày nay ở Việt Nam, Lão giáo và Khổng
giáo chỉ còn chủ yếu trên sách vở. Các tín ngưỡng, tập của các tôn giáo,
các tín ngưỡng bản địa ngày nay hầu như chỉ còn thấy trong các chùa và
nghiễm nhiên trở thành của Phật giáo. Tất nhiên, khi đi vào Phật giáo,
nó sẽ có vài cải biến cho phù hợp với giáo lí nhà Phật. Nhưng xét trên
nguồn gốc chúng lại có nguồn gốc từ dân gian hoặc các tôn giáo khác.
Điều này nói lên rằng, chùa là nơi giữ gìn vốn qúy văn hóa dân tộc.
Một khi đã như thế, chúng ta phải cố bảo
lưu, duy trì và phát huy những giá trị tích cực của nó để một mặt góp
phần phát huy tín ngưỡng, bản sắc văn hóa dân tộc, mặt khác nó là những
phương tiện để hoằng dương Chánh pháp Phật đà.
Đối với Phật tử và người dân, giữ gìn
các tập tục của cha ông như tập tục cúng sao hạn (và những tập tục,
phong tục khác) là tiếp bước cha ông, là giữ gìn vốn qúy của dân tộc.
Trong thời điểm giao lưu văn hóa toàn cầu, giữ gìn và phát huy cội nguồn
văn hóa, tín ngưỡng truyền thống là việc làm cần thiết và đáng trân
trọng. Bên cạnh đó, việc cử hành các nghi lễ, các tập tục có nguồn gốc
dân gian hay các tín ngưỡng khác có mặt lâu đời ở Việt Nam trong các
chùa, giúp cho Phật tử có dịp về chùa lễ Phật, làm việc phúc thiện, góp
phần cải tạo bản thân, cải tạo xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Nếu chùa Phật giáo, ngoài sinh hoạt tâm
linh, sinh hoạt thuần túy Phật giáo lại còn mở rộng sinh hoạt văn hóa
dân tộc, tín ngưỡng dân gian, thì chúng tôi tin rằng chùa Phật giáo sẽ
trở thành nơi sinh hoạt tín ngưỡng, sinh hoạt văn hoá của toàn xã hội mà
một thời ngôi chùa Phật giáo đã từng đảm nhiệm chức năng này. Ngày xưa,
chùa Phật giáo đồng thời làm cả hai nhiệm là nơi sinh hoạt tâm linh và
nơi sinh hoạt của cọng đồng làng xã. Ngày nay, chúng ta đưa ngôi chùa đi
vào sinh hoạt đồng thời cả hai nhiệm vụ là đưa ngôi chùa trở về thực
hiện hết chức năng vốn có của nó. Muốn thế, chúng ta phải mạnh dạn chấp
nhận tất cả những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng nhân gian diễn ra ở trong
các ngôi chùa. Nói thế, không có nghĩa chúng ta chấp nhận tràn lan tất
cả các loại tín ngưỡng tạp nhạp, mê tín vào sinh hoạt trong chùa. Chúng
ta phải chọn lọc, phải phân biệt tín ngưỡng nào là văn hóa, tín ngưỡng
nào là phi văn hóa, tín ngưỡng nào là nhân bản, tín ngưỡng nào là phi
nhân bản và đồng phải làm mới lại tất cả những những hội lễ và tập tục
trên cơ sở văn hóa, tâm linh và bối cảnh thời đại.
Ở đây, cúng sao hạn là một tập tục lâu
đời của dân gian đi vào Phật giáo và được Phật giáo tiếp thu, giữ gìn từ
đó đến nay. Như thế, nó chắc chắn không phải tập tục phi văn hóa, phi
nhân bản. Bởi nếu nó phi văn hóa, phi nhân bản thì nó đã chết từ lâu.
Cho nên, việc giữ gìn, làm mới lại nó và cho phép nó sinh hoạt trong các
chùa Phật giáo không có gì xấu ác, mê tín cả. Ngược lại, đây là cách
thức giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và lấy đó làm một trong những
cánh cửa phương tiện đưa người về Phật đạo.
Tuy nhiên, cũng như bất kỳ phong tục,
tập tục nào khác, cúng sao hạn cũng có những mặt tiêu cực của nó.
2. Mặt Tiêu Cực
Bất kỳ một tập tục, nghi thức, hội lễ
nào, từ lúc ra đời, trải qua sự biến đổi của các thời đại, những người
thừa kế tập tục, nghi thức, hội lễ đó bao giờ cũng có những thêm bớt,
làm biến đổi tập tục, nghi thức, hội lễ ban đầu. Hơn nữa, cùng một tập
tục, nghi thức, hội lễ nhưng đối với triều đại này nó diễn ra theo một
chiều hướng, triều đại kia lại theo chiều hướng khác, do tác động của ý
thức hệ chính trị đang nắm quyền. Do đó, đến ngày nay, các tập tục, nghi
thức, hội lễ chắn chắc đã có những biến đổi, thêm bớt. Một khi bị biến
đổi, thêm bớt dưới tác đông chính trị, chúng thường biến đổi theo hướng
tiêu cực. Dưới thời thực dân pháp xâm lược chúng ta thấy rõ đều đó. Đặc
biệt không riêng gì các tín ngưỡng dân gian mà cả tôn giáo lớn như Phật
giáo cũng bị xen vào những tín ngưỡng mê tín. Tục cúng sao hạn sao thoát
khỏi tình trạng này. Đại loại các câu truyền miệng trong dân gian khi
nói về sự cát hung của sao hạn ảnh hưởng đến con người được thêm vào mà
không thấy có trong sách vở như: “Thái Bạch sạch cửa nhà”, “ Toán
[Tán] là đi Tận là hết, Toán tận là đi hết”, “Huỳnh Tuyền là suối vàng”
. . .
Từ những câu nói trên, qua sự đoán sao
đoán hạn của những người không có Chánh tâm diễn dịch ra và tuyên bố một
cách chắc nịch rằng, nếu sao đó, hạn đó mà không giải, không cúng thì
sẽ hao tài, mất mạng . . . Từ đó, làm cho người mắc các sao hạn xấu luôn
luôn run sợ, không dám khởi sự làm ăn hay đi đau xa cả. Trong cơn sợ
sệt qúa độ, họ đi cúng sao giải hạn thì người cúng lại bày thêm những
thứ lễ vật và nghi thức mang màu sắc mê tín như thỉnh bùa để đeo, làm
phép . . . Nếu thấy không hết, họ lại đi vái van cầu xin Phật, xin thần
đủ mọi nơi mọi chỗ. Rốt cuộc tiền mất tật mang. Trong khi cốt yếu của
việc cúng sao giải hạn, nhất là cúng sao giải hạn theo quan niệm Phật là
nền giáo dục răn đe, khuyến cáo người ta làm lành lánh dữ, làm thiện
làm phúc để chuyển hóa tài ương thành sự tốt lành.
Cúng sao giải hạn là một phương tiện,
một cách đưa Phật giáo đi vào cuộc đời, tranh thủ số lượng tín đồ. Nhưng
nếu không khéo sẽ biến nó thành ra một sự cứu cánh thì sẽ đánh mất bản
chất cứu cánh của Phật giáo là giải thoát. Giáo lí đạo Phật có khả năng
dung hóa, hòa nhập nhưng không bao giờ biến chất. Vì nó được xây dựng
trên nguyên tắc “Tùy duyên bất biến”. Tuy nhiên, nếu người làm
công tác truyền bá giáo pháp không cẩn thận sẽ bị lôi cuốn theo dòng
xoáy của cái phương tiện, đánh mất cứu cánh. Chúng ta xem sao đoán hạn,
cúng giải cho một ai đó là cách thức đưa họ vào đạo, nhưng nếu chúng ta
giảng giải không khéo, không thông và cử hành lễ cúng mang nặng hình
thức phù chú bí ẩn thì vô tình chúng ta đưa họ vào con đường mê tín mà
không hay biết.
Cúng sao hạn có nguồn gốc từ Lão giáo,
được ông cha chúng ta tiếp thu, biến thành tập tục của mình và đã làm
theo. Ngày nay, chúng ta tiếp tục tin theo là một trong những hình thức
giữ gìn phong tục truyền thống dân tộc, làm cái việc cha ông đã làm.
Nhưng vì hiện nay tập tục này hầu hết diễn ra ở các chùa nên dưới mắt
một số người cho rằng, đây là tập tục mê tín của Phật giáo. Vì thế, nếu
không làm rõ nguồn gốc và mục đích của Phật giáo khi thực hiện tập tục
này, sẽ làm giảm giá trị ưu việt của Phật giáo. Thực tế này, một vài năm
trước đây đã có một vài tờ báo xuyên tạc, cho đây là mê tín dị đoan.
Trong khi, rõ ràng tập tục này là tập tục của Lão giáo. Phật giáo chỉ sử
dụng tập tục này như một phương tiện giáo dục, răn nhắc mọi người lánh
ác làm lành mà thôi.
Hiện nay, đa số những người cúng sao hạn
là những người bình dân, họ luôn tin tuyệt đối vào trời Phật, vào khả
nằng chú nguyện, cầu nguyện của qúy thầy. Do đó, cúng sao giải hạn nếu
không đi đôi với việc khuyến thiện, nổ lực cá nhân sẽ dẫn đến tâm lí ỷ
lại, trông chờ vào thế lực siêu hình, đánh mất khả năng tự độ của bản
thân. Chưa kể, nếu không nhận thức rõ ý nghĩa, mục đích cúng, người được
cúng giải sao hạn sẽ nghĩ mình đã cúng sao, giải hạn rồi thì an tâm,
làm gì cũng được, thì qủa là điều tại hại. Vô hình trung, nó dẫn đến tai
họa cho cá nhân và xã hội.
Hiện nay, mỗi dịp lễ tết người ta đến
chùa cúng sao giải hạn rất đông. Lợi dụng sự tín tâm của nhiều người,
những kẻ vì lợi nhuận thường bày bán đủ các loại lễ vật cúng sao hạn
trước các cửa chùa, gây ra cái nhìn không tốt về đạo Phật trong mắt của
nhiều người đi lễ chùa. Một số chùa khi cử hành nghi thức cúng sao hạn
cũng rất nặng nè, phiền phức, mang vẻ âm u huyền bí, làm mất sự trong
sáng của nền tín ngưỡng Phật giáo và bản chất của tập tục. Và do đó, dễ
biến tập tục này thành tập tục mê tín. Mong qúy chùa có cử hành tập tục
cúng sao hạn nên lưu ý điều này.
Nói tóm lại, bản thân tập tục cúng sao
hạn tự nó không xấu cũng không hẳn là là hoàn toàn tốt; không phải mê
tín cũng hoàn toàn không phải không có những mặt trái. Xấu hay tốt, mê
tín hay không mê tín là ở chỗ chúng ta theo tập tục đó với ý nghĩa, mục
đích gì. Đối với Phật giáo, việc xác định mục đích, ý nghĩa của tập tục
cúng sao hạn là việc làm rất quan trọng. Nếu xem cúng sao giải hạn như
một phương tiện truyền bá Phật pháp, là một cách thức khuyên mọi người
làm lành lánh dữ thì nó tốt. Ngược lại, xem nó như là cứu cánh và đưa
thêm vào đó những nội dung tạp nhạp, bày ra những hình thức phù chú, mê
hoặc thì nó xấu. Xấu hay tốt, tích cực hay tiêu cực là tùy ở chúng ta.
IV. KẾT LUẬN
Phong tục tập quán của một dân tộc là
truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc đó. Dù qua thời gian phong tục
có thay đổi, có biến dạng nhưng bản chất của nó cơ bản vẫn là tốt. Bên
cạnh những phong tục, tập tục, hẳn nhiên có những hủ tục. Chúng ta phải
giữ gìn, phát huy vốn qúy của dân tộc bằng cách giữ gìn những phong tục,
tập tục mang màu sắc văn hóa và nhân bản và loại dần những phong tục,
tập tục phi văn hoá, phi nhân bản.
Truyền thống có những những tinh hoa
đồng thời cũng có những hủ tục. Nhưng không phải vì một số hủ tục mà ta
bỏ đi tất cả truyền thống. Vấn đề là chúng ta phải biết cắt tỉa những
cành nhánh có hại cho cây truyền thống để chúng cho những hoa qủa đẹp.
Hoa qủa đẹp này là cái ta phải nâng niu, giữ gìn để làm dưỡng chất nuôi
sống bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngay trong một phong tục, tập tục tốt
nếu chúng ta không khéo cũng dễ biến nó thành mê tín và như thế cũng
chẳng khác gì hủ tục. Giữa tập tục và hủ tục chỉ cách nhau trong gang
tấc. Khéo làm theo thì thành văn hóa, thành nét đẹp, không khéo làm theo
thì thành mê tín.
Trong việc giữ gìn phát huy bản sắc văn
hóa, truyền thống dân tộc, Phật giáo đóng một vài trò rất quan trọng.
Chùa Phật giáo là nơi giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Do đó,
Phật giáo cần đi tiên phong trong việc giữ gìn sự trong sáng của tất cả
các phong tục tập quán dân tộc. Đồng thời loại dần những hủ tục, những
mặt tiêu cực của các tập tục có hại cho bản sắc văn hóa dân tộc.
Đối với các phong tục đã đi vào Phật
giáo và trở thành của Phật giáo, chúng ta luôn xem nó như một phương
tiện để quần chúng hoá, xã hội hóa Phật giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mật Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược,
Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2004.
Nhất Hạnh, Hoa Sen Trong Biển Lửa,
Hội Phật Tử Việt Kiều Hải Ngoại xuất bản, 1966.
Lê Mạnh Thát, Lịch Sử Phật Giáo Việt
Nam, I, Huế: Thuận Hóa, 1999; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam,
II, TP.HCM: NXB TP.HCM, 2001; Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, III,
TP. HCM: NXB Tổng Hợp TP. HCM, 2005.
Ngô Đức Thọ dịch, Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư, I, II, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 2004.
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược,
TP.HCM: NXB Tổng Hợp Tp.HCM, 2005.
Toan Ánh, Nếp Cũ Tín Ngưỡng Việt Nam,
quyển hạ, TP.HCM: NXB Trẻ, 2005.
Thích Đồng Bổn, Phong Tục Dân Gian
Nam Bộ và Phật Giáo, TP.HCM: NXB Văn Hóa Sài Gòn, 2007.
Thích Hoàn Thông, Nghi Lễ, Tài
liệu viết tay.
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử
Luận, Hà Nội: NXB Văn Học, 2000.
Trần Hồng Liên, Góp Phần Tìm Hiểu
Phật Giáo Nam Bộ, Hà Nội: NXB Khoa Học Xã Hội, 2004.
Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục,
Sài Gòn: Phong Trào Văn Hóa, 1970.
Tân Việt, Một Trăm Điều Nên Biết về
Phong Tục Việt Nam, Hà Nội: NXB Văn Hóa Dân Tộc, 1994.
Trần Quốc Vượng, Cơ Sở Văn Hóa Việt
Nam, NXB Giáo Dục, 2005.
Trần Ngọc Thêm, Cơ Sở Văn Hóa Việt
Nam, NXB Giáo Dục, 1997.
[1] Theo Thích
Đồng Bổn, Phong Tục Dân Gian Nam Bộ và Phật Giáo, TP. HCM: NXB
Văn Hóa Sài Gòn, 2007, tr. 20 – 21 và Toan Ánh, Nếp Cũ Tín Ngưỡng
Việt Nam, quyển hạ, TP. HCM: NXB Trẻ, tr. 214.
[2] Toan Ánh, Sđd,
tr. 220.