Khoa học giải thích vũ trụ bắt đầu từ
Big Bang. Trước Big Bang là một vũ trụ khác. Sau Big Bang là vũ trụ mà
ta đang sống. Theo Phật giáo, Big Bang và những gì diễn ra sau đó đều là
vô thủy vô minh. Vô thủy là không có bắt đầu. Vô minh là không sáng tỏ,
là mê mờ, đó chính là nhân duyên số một làm phát sinh vũ trụ vạn vật.
Thuật ngữ vô thủy vô minh là ý nói tất cả chỉ là hiện tượng tâm lý, là
không có thật. Vì không có thật nên không có bắt đầu, không có kết thúc,
không có sinh diệt. Vì vô minh nên thấy có vũ trụ vật chất, có sinh
diệt, vì vậy mới có sinh tử luân hồi, mới có khổ sướng. Đức Phật dựa
trên tâm lý mê muội của chúng sinh mà tiêu biểu là con người, thuyết
giảng 12 nhân duyên để chúng hiểu đại khái vì sao từ Không, không có gì
cả mà thành ra có Tam giới. Tam giới là 3 cõi giới :
- Dục giới chính là cõi giới của Con
Người thế gian nhiều ham muốn, cõi vật chất có khối lượng, có trọng
lượng. Trên cõi Người là cõi trời Lục Dục Thiên, chúng sinh cõi này có
thọ mạng lâu dài hơn cõi thế gian. Thấp hơn cõi Người là cõi của A-tu-la
(阿修羅; asura, có 3 loại : ác thần, quỷ, quái vật), Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục.
- Sắc giới là cõi có hình tướng mà không
có khối lượng, không có trọng lượng, vật chất của cõi này chỉ còn là
hào quang, ánh sáng, thông tin, sóng, năng lượng. Chúng sinh cõi này ít
ham muốn, không còn xác thân vật chất, nhưng còn hình dáng, có thể thấy
và nghe được.
- Vô Sắc giới là cõi không còn hình
tướng, chỉ còn thông tin mà thôi, kinh điển có đề cập tới Cõi Trời gọi
là Phi tưởng phi Phi tưởng xứ là một cõi Vô Sắc. Chúng sinh cõi này giao
tiếp với nhau trực tiếp qua ý niệm, cá thể này khởi niệm thì cá thể kia
đã hiểu, không cần ngôn ngữ lời nói.
Thuyết Thập nhị nhân duyên chủ yếu tập
trung hướng về con người để thuyết giảng. (Xin xem bài Thập nhị nhân
duyên). Bốn nhân duyên đầu (Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc) là sự vận
động tự thân của cấu trúc ảo vật chất, (nói theo khoa học là quark hình
thành proton, neutron, hạt nhân nguyên tử, rồi phối hợp với electron tạo
ra nguyên tử của các nguyên tố, một số nguyên tử kết hợp thành phân tử
vô cơ như H2, O2, N2, một số nguyên tử khác kết hợp với các phân tử này thành thành một phân tử rất cơ bản cho sự sống là nước H2O và thành các phân tử hữu cơ như acid amin, tiêu biểu là glycine, một acid amin đơn giản nhất C2H5NO2 còn được viết dưới dạng NH2CH2COOH
Rồi các phân tử hữu cơ hình thành nên tế
bào sinh vật, kết hợp với nhiều nguyên tố khác tạo ra cơ thể sinh vật,
rồi tiến hóa dần thành ra sinh vật, con người.)
Phật giáo gọi chung sự kết hợp vô cùng
phức tạp đó là trùng trùng duyên khởi. Tại sao có thể cấu trúc được
những vật vô cùng phức tạp và tinh tế như vậy ? Vì cái nền hay cơ bản
của nó là Phật tánh, tánh giác ngộ, tánh biết, thuật ngữ Phật giáo gọi
là Chánh biến tri, tức cái biết bất nhị (không có năng tri và sở tri)
cùng khắp không gian và thời gian, không có hạn lượng. Cái biết đó tạo
ra vũ trụ, thiên hà, mặt trời, hành tinh, vạn vật, con người. Đúng ra
vạn vật ban đầu chỉ có Sắc (vật chất) mà chưa có Danh (tên gọi) chỉ khi
có con người xuất hiện, có ý niệm mới có tên gọi.
Tánh thấy tạo ra nhãn căn (mắt). Tánh
nghe tạo ra nhĩ căn (tai). Tánh ngửi tạo ra tị căn (mũi). Tánh nếm tạo
ra vị căn (lưỡi). Tánh sờ mó tiếp xúc tạo ra thân thể (thân căn), thân
thể có nhiều cơ quan nội tạng giúp cơ thể hoạt động và tăng trưởng theo
một chương trình thông tin di truyền chứa trong nhân tế bào gọi là nhiễm
sắc thể (DNA DeoxyriboNucleic Acid). Tánh biết tạo ra ý căn (não bộ) là
trung tâm tổng hợp và điều khiển mọi hoạt động của cơ thể và từ đó có
khả năng suy nghĩ trừu tượng nhờ vào khả năng ghi nhớ của các tế bào
thần kinh.
Trên đây là sự hình thành lục căn.
Đồng thời với sự hình thành lục căn là sự giao tiếp với lục trần.
-Những gì thuộc về màu sắc, hình dáng,
trở thành đối tượng của mắt. Mắt là cơ quan tiếp nhận thông tin của đối
tượng qua trung gian là ánh sáng. Ánh sáng mặt trời có 7 màu, màu sắc
chỉ là cảm nhận của ý thức, phân biệt bằng độ dài sóng của từng ánh sáng
đơn sắc như bảng sau :
Ánh sáng
|
Độ dài sóng (nm)
|
Năng lượng sóng (eV)
|
Tia tử ngoại
|
ngắn hơn 380
|
lớn hơn 3,3
|
Tím
|
380
|
3,3
|
Xanh dương
|
450
|
2,8
|
Xanh lá cây
|
530
|
2,3
|
Vàng
|
580
|
2,1
|
Đỏ
|
720
|
1,7
|
Tia hồng ngoại
|
dài hơn 720
|
nhỏ hơn 1,7
|
Bảng 1: Độ dài sóng và năng lượng sóng.
Con người dựa vào kiến thức này để chế
tạo máy chụp hình và quay phim. Ngày xưa người ta dùng phim có tráng hóa
chất để ghi nhận hình ảnh. Ngày nay người ta không dùng phim nữa mà
dùng thẻ nhớ kỹ thuật số để ghi nhớ, tiện lợi hơn rất nhiều. Bây giờ tất
cả điện thoại di động thông minh (smartphone) đều có camera để quay
phim chụp ảnh.
-Âm thanh, tiếng động trở thành đối
tượng của tai. Âm thanh hay tiếng động có bản chất là sóng, truyền đi
qua không khí. Tai người có thể nghe được dao động của sóng âm trong
khoảng tần số từ 20 Hertz đến 20 Kilohertz. Sóng điện từ có tần số dao
động cao hơn, tai người không nghe được, nhưng những thiết bị như radio
thu được và biến trở lại thành âm thanh mà tai người nghe được qua loa
(speaker). Radio sử dụng tính chất cộng hưởng giữa sóng và máy thu để dò
đài, khi dò trúng đài thì sự cộng hưởng làm cho biên độ dao động được
khuếch đại rất nhiều khiến tai nghe rõ. Sóng điện từ có độ dài bước sóng
từ 380 nm đến 720 nm (nanometre = 1 phần tỉ metre) thì mắt người nhìn
thấy được, đó chính là ánh sáng. Tính chất cộng hưởng còn được sử dụng
trong lò vi ba, khi tần số của vi ba trùng với tần số cộng hưởng của các
phân tử hữu cơ trong thức ăn thì thức ăn hấp thụ mạnh năng lượng của vi
ba nên nóng lên rất nhanh, rất tiện để hâm nóng lại thức ăn đã nguội.
Mùi thơm hay hôi trở thành đối tượng của
mũi. Bản chất của mùi là phản ứng hóa học giữa tế bào khứu giác và các
phân tử của một số chất khuếch tán trong không khí. Tế bào mũi nhận ra
các phân tử đó khi so sánh chúng với dữ liệu chứa sẵn trong ký ức, đánh
giá thơm hay hôi có thể là chủ quan của từng cá thể. Ví dụ mùi sầu riêng
có thể là thơm đối với một số người, nhưng là hôi đối với một số người
khác. Mùi hôi tanh của súc vật hay cá tép là cảm giác của người chớ đối
với chúng là bình thường.
Vị ngọt, mặn, cay, nồng, chua, đắng,
chát…trở thành đối tượng của lưỡi. Tế bào lưỡi nhận ra vị của thức ăn,
nước uống, qua các phân tử, thông tin truyền vào não, ký ức so sánh và
nhận ra, ví dụ muối thì mặn, đường thì ngọt, chanh thì chua, cà phê thì
đắng, ớt thì cay, chuối sống thì chát, mỡ thì béo v.v…
Cảm giác trơn, láng, nhám, sần, khô,
ướt, sướng, đau, rát, bỏng, ngứa…trở thành đối tượng của thân thể. Các
tế bào thần kinh trên da, trên một số vùng của cơ thể thu nhận thông tin
qua tiếp xúc. Ví dụ cầm ly nước nóng 70 độ có cảm giác nóng, nếu là ly
nước đá thì có cảm giác lạnh. Tay sờ vào lụa có cảm giác trơn láng, sờ
vào nền xi măng cho cảm giác nhám. Khi bị đánh thì có cảm giác đau. Xúc
giác là cảm giác quan trọng trong sinh hoạt tính dục nam nữ. Loại cảm
giác này quan trọng đến mức nó trở thành đặc trưng của cõi giới. Cõi
giới của con người được gọi là dục giới. Dục là ham muốn, một trong
những ham muốn chủ yếu của cõi này là tính dục. Tính dục là để sinh con
đẻ cái, lưu truyền nòi giống, nhưng đối với con người, tính dục còn đem
lại cảm giác khoái lạc, sung sướng hạnh phúc, cảm giác này ngày càng trở
nên quan trọng hơn sự truyền giống. Trên cơ thể con người có những điểm
nhạy cảm, như điểm G chẳng hạn, khi bị kích thích thì có cảm giác khoái
lạc, kích thích liên tục thì dẫn đến cực khoái (orgasm). Trong giao
hợp, cực khoái dẫn đến phóng thích tinh dịch từ người nam vào người nữ,
có thể đưa đến sự thụ thai khi tinh trùng gặp được trứng. Chính vì ham
muốn về tính dục là một nhu cầu rất mạnh, nên một trong 5 giới cấm căn
bản trong giới luật Phật giáo là bất tà dâm (không tính giao ngoài quan
hệ vợ chồng) đối với Phật tử thọ ngũ giới [bất sát sinh, bất thâu đạo
(không trộm cắp), bất tà dâm, bất vọng ngữ (không nói dối), bất ẩm tửu
(không uống rượu)]
Các pháp (dharma, pháp là thuật ngữ Phật
giáo có nghĩa rất rộng, chỉ chung tất cả mọi sự vật là vật chất, kể cả
những vật không hiện hữu như lông rùa, sừng thỏ, và mọi khái niệm của
tinh thần, lý trí, tình cảm…đều được gọi là pháp) trở thành đối tượng
của ý căn. Như vậy đối tượng của ý căn rất rộng lớn, bao gồm mọi lĩnh
vực, từ vật chất tới tinh thần. Mọi hoạt động của xã hội loài người từ
sản xuất vật chất đến văn hóa, nghệ thuật, triết học, văn học, khoa học,
lịch sử, luật pháp đều thuộc về ý thức.
Sự giao tiếp giữa lục căn (mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân, não) và lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp)
phát sinh lục thức (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, ý thức). Phật giáo
gọi chung lục căn, lục trần và lục thức là 18 giới hay nói rõ hơn là 18
cảnh giới. Tất cả 18 cảnh giới đều là tâm cảnh chứ không phải vật cảnh,
vì vật xét cho cùng là không có thật, mặc dù lục căn và lục trần phần
lớn là vật chất, chỉ có pháp trần có thể một phần là tinh thần, bởi vì
não phải nhận thông tin từ các giác quan, so sánh với dữ liệu lưu trữ
trong ký ức mới có được nhận thức. Nếu ký ức không có dữ liệu, ví dụ đứa
trẻ sơ sinh, không có gì để so sánh, thì nó không hiểu không biết gì
cả. Có những đứa trẻ chưa học mà biết, đó là do ký ức của nó còn lưu lại
những dữ liệu của kiếp trước. Đối với người giác ngộ, đã mở được
a-lại-da thức thì biết cả quá khứ vị lai, vì bản chất đích thực của pháp
giới là vô thủy vô chung, không có không gian, không có thời gian,
không có số lượng.
Lục thức là cái biết của nhất niệm vô
minh, khi bộ máy hoạt động, từng ý niệm được phát sinh liên tục không
ngừng nghỉ, tạo thành một dòng ý thức. Dòng ý thức này được mạt-na thức
nhận là của nó, hình thành bản ngã, thông tin của ý thức được tích lũy
trong a-lại-da thức. Khi một người chết đi, xác thân tan rã, lục căn
không còn, nhưng thông tin vẫn còn nguyên trong a-lại-da thức. Như vậy
khi một người chết, vong linh vẫn còn, một số nhà ngoại cảm như Phan Thị
Bích Hằng có thể tiếp xúc với vong linh, thấy được hình tướng của họ.
Họ không còn ở trong Dục giới mà đã qua Sắc giới. Phật giáo không gọi đó
là vong linh hay linh hồn mà gọi là thần thức là năng lực chuyển tiếp
trước khi đầu thai vào một kiếp sống mới, tùy theo nghiệp chướng mà sẽ
đi vào một trong lục đạo (sáu đường) từ cao xuống thấp như sau, 3 đường
trên là thiện đạo có phước báo, 3 đường dưới là ác đạo bị quả báo, lục
đạo là :
1 Trời . Cõi trời thuộc Dục giới gồm 6 tầng gọi là Lục Dục Thiên bao gồm : Tứ thiên vương (四天王, sa. cāturmahārājika)), Đao lợi (忉利 hay Tam thập tam thiên 三十三天, sa. trayastriṃśa tức 33 cõi trời ), Tu Dạ Ma Thiên (須夜摩天, sa. suyāma), Ðâu Xuất Thiên ((兜率天, sa. tuṣita), Hóa Lạc Thiên (化樂天, sa. nirmāṇarati), Tha Hóa Tự Tại Thiên (他化自在天, sa. paranirmitavaśavarti). Nói chung chúng sinh ở cõi trời có nhiều phước báo nên có thọ mạng lâu dài, hưởng nhiều lạc thú.
Cõi trời thuộc Sắc giới có 4 cảnh giới
là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, mỗi cảnh giới có 3 loại cõi trời khác
nhau, riêng Tứ thiền có tới 7 loại khác nhau.
Cõi trời thuộc Vô Sắc giới có 4 cảnh giới :
a. Phi tưởng, phi phi tưởng thiên (Devas of Sphere of Neither-perception nor non-perception; Nevasaññā-nasaññā-yatanūpagā devā)
b. Vô sở hữu thiên (Devas of Sphere of No-thingness; Ākiñcañña-yatanūpagā devā)
c. Thức vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Consciousness; Viññānañca-yatanūpagā devā)
d. Không vô biên thiên (Devas of Sphere of Infinite Space; Ākāsānañca-yatanūpā devā)
2 Người . Người và súc
sinh ở chung trong 4 châu lục là Đông Thắng Thần Châu, Bắc Câu Lư Châu,
Nam Thiệm Bộ Châu (còn gọi là Diêm Phù Đề hay Ta Bà) và Tây Ngưu Hóa
Châu. Ở giữa các châu là núi Tu di. Đó là đại khái quan niệm về địa lý
thế giới của thời Đức Phật. Đông Thắng Thần Châu là Trung Quốc; Bắc Câu
Lư Châu là Tây Tạng, Bắc Trung Á; Nam Thiệm Bộ Châu là Nam Á ; Tây Ngưu
Hóa Châu là Tây Á, Ả Rập. Núi Tu Di là dãy Hy Mã Lạp Sơn.
3 A-tu-la : có 3 loại.
A-tu-la thiên đạo có phước báo nhưng hình dung xấu xí thuộc loại ác
thần chứ không được đẹp đẽ như thiên thần. A-tu-la quỷ đạo giống như quỷ
nhưng không phải ngạ quỷ. A-tu-la súc đạo giống như thú nhưng là quái
vật chứ không phải thú bình thường.
4 Súc sinh. Tức các loại thú, cầm, thủy tộc và các chủng loại như bò sát, côn trùng có cánh bay được, hay chỉ cựa quậy như sâu bọ, giòi.
5 Ngạ quỷ. Loài quỷ đói
lúc nào cũng đói khát nhưng không thể ăn được vì cấu tạo cơ thể quái
dị, cổ nhỏ bằng cây kim, không nuốt được thức ăn.
6 Địa ngục. Là nơi giam
giữ chúng sanh có nhiều ác nghiệp, có thể bị treo ngược và đói khát
triền miên nhưng không thể ăn được, thức ăn đưa đến miệng thì hóa thành
lửa. Kinh điển có nêu trường hợp của Bà Thanh Đề, mẹ của Mục Kiền Liên,
chịu khổ ở địa ngục.
Tất cả các cảnh giới trên đều là do tâm
tạo, tùy theo nghiệp thiện ác mà cảnh hiện ra lành thanh tịnh, vững bền,
hay dữ, ô uế, khổ sở, nhiều biến cố như thiên tai khủng khiếp, nước,
gió , lửa hoành hành. Chúng sinh trong tam giới có 4 kiểu sinh sản hay
xuất hiện :
a. Noãn sinh (Andajayoni): loài sinh ra từ trứng, như loài chim, ngỗng, khổng tước, gà, rắn, cá, côn trùng…
b. Thai sinh (Jalabuja, còn gọi Phúc sinh): loài sinh ra từ thai mẹ, như người, voi, ngựa, trâu, bò, heo, dê, lừa…
c. Thấp sinh (Samsedaja, còn gọi nhân
duyên, hàn nhiệt hòa hợp sinh): loài sinh ra từ nơi ẩm ướt, hay có điều
kiện thuận lợi như vi trùng, vi khuẩn.
d. Hóa sinh (Opapatika): Là cách xuất
hiện không cần có cha mẹ, do nghiệp lực mà hiện sinh, gọi là hóa sinh,
như : chư thiên, địa ngục, trung ấm, đều do nghiệp lực đời quá khứ khi
tới hạn thì sinh ra.
Tuy tóm gọn trong 18 cảnh giới của căn,
trần, thức, nhưng thực tế là bao trùm cả vũ trụ vạn vật, bởi vì tiền ngũ
căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân) nhận biết những đối tượng căn bản
nhất, còn não bộ có khả năng lý luận và tư duy trừu tượng tức không cần
có đối tượng ngay hiện tiền mà chỉ cần có ký hiệu để thay thế hiện vật.
Ký hiệu bao gồm hình ảnh, ngôn ngữ, chữ viết, các ký hiệu đặc biệt khác
như ký hiệu toán học, vật lý học, hình học…Những hiện tượng phức tạp còn
được khái quát hóa thành mô hình, như mô hình nguyên tử vật chất, mô
hình kinh tế, những sự vật cụ thể phức tạp có thể được vẽ thành sơ đồ…Do
đó cái biết của bộ óc ngày càng nhiều và tinh vi. Nhiều sự vật trong
thiên nhiên không có, nhưng bộ óc thông minh của con người sáng tạo ra
để sử dụng như tàu thủy, xe hơi, máy bay, máy vi tính, sóng điện từ dùng
trong radio, tivi; bluetooth, wi-fi, 3G, 4G dùng trong điện thoại di
động và internet. Vô số phát minh sáng chế trong tất cả mọi ngành hoạt
động khiến cho khả năng sản xuất vật chất và phi vật chất của con người
tăng lên rất nhiều so với thời xưa. Bộ óc với tư duy trừu tượng có thể
hiểu được nhiều điều kỳ diệu vượt rất xa so với những cái thấy nghe hay
biết thông thường. Do đó Pháp trần, đối tượng của não bộ, tức ý căn, bao
trùm cả Tam giới mênh mông, từ thiên thể vĩ mô cho tới thế giới vi mô
hạ nguyên tử (subatomic), ý thức đều có thể đạt tới.
Chẳng hạn, thông thường thấy con trâu,
con ngựa, heo gà, cá tôm, sông núi, nhà cửa, xe cộ, cơm nước là vật chất
và cho rằng chúng có thật 100% vì mắt thấy, tai nghe, thân thể tiếp
xúc, ngửi thấy mùi, nếm thấy vị, ăn no, tiêu hóa được, có tăng trọng,
đâu còn chỗ nào để nghi ngờ rằng chúng không có thật ? Nhưng trí óc tư
duy chặt chẽ biết vật chất cấu tạo bởi những hạt ảo như quark, electron,
những hạt này nếu bị cô lập thì chúng không tồn tại, chúng chỉ hiện hữu
khi được kết hợp, ví dụ 2 quark up kết hợp với 1 quark down thì xuất
hiện hạt proton; 1 quark up kết hợp với 2 quark down thì xuất hiện hạt
neutron. Proton và neutron là những hạt vô cùng bền vững tạo thành hạt
nhân của nguyên tử. Hạt nhân kết hợp với electron thì tạo thành nguyên
tử vật chất. Như vậy nguyên tử chỉ là sự kết hợp nhân duyên của các hạt
ảo, nguyên tử không phải là vật. Vậy tại sao ta lại thấy nguyên là vật,
là đơn vị đầu tiên của vật chất ? Đó là vì ta có lục căn, đó là một bộ
máy ảo hóa có khả năng phát sinh nhất niệm vô minh, nói vô minh là vì mê
mờ, không thấy rõ, không biết rõ, bị lầm lạc, nên tưởng tượng ra vật.
Cũng giống như máy vi tính, mỗi dao động của con chip tương ứng với một
niệm của con người. Con chip dao động hàng tỉ lần trong một giây, biến
những dãy số nhị phân 0 và 1 có cấu trúc thiên hình vạn trạng, thành chữ
viết, hình ảnh, âm thanh, video mà ta nhìn thấy trên màn hình. Cũng
tương tự, cấu trúc ảo của nguyên tử, của các loại vật chất khác nhau
(Phật giáo gọi là vô thủy vô minh) chỉ hiện hữu trên cái phông của tâm
thức hình thành từ vô số nhất niệm vô minh liên tục. Không có cái đơn vị
tư tưởng là nhất niệm vô minh thì cũng không có vật gì cả, bởi vì tất
cả mọi cấu trúc của vật chất đều là ảo, là không có thật, nên cần có
nhất niệm vô minh để tưởng tượng ra. Vì lẽ đó thuyết Thập nhị nhân duyên
của Phật giáo lấy Vô minh làm nhân duyên cơ bản.
Vậy lý trí của ta hiểu rõ vật chất chỉ
là thế lưu bố tưởng chứ không phải thật, song ta không thể tự mình chứng
tỏ được điều đó, vì đã từ bao nhiêu kiếp ta đã chấp thật cho là vật
chất có thật. Chính tâm chấp thật kiên cố đã làm cho các hạt quark dính
chặt vào nhau trong cấu trúc proton và neutron tạo thành hiện tượng mà
khoa học gọi là sự giam hãm (confinement) tức là 3 hạt quark bị giam hãm
vĩnh viễn trong hạt proton không cách nào phá vỡ được. Dù khoa học có
thể bắn phá làm vỡ hạt nhân nguyên tử, tạo thành nguyên tố khác và phát
sinh năng lượng nhưng hạt proton và hạt neutron vẫn còn nguyên không bị
phá vỡ. Cho dù ngày nay người ta có chế tạo được chiếc máy gia tốc khổng
lồ LHC (Large Hadron Collider), gia tốc chùm hạt proton đạt tới vận tốc
gần bằng ánh sáng, cho hai chùm hạt đi ngược chiều, va đập vào nhau,
cũng không đủ sức phá vỡ hạt proton.
Chỉ khi nào hoàn toàn bỏ được tâm cố
chấp, kiến tánh, vận dụng được sức mạnh tâm linh của Phật tánh thì mới
phá vỡ được hạt proton, đạt tới Sự Sự vô ngại, tức có thể đi xuyên qua
tường, một điều mà Trương Bảo Thắng đã từng biểu diễn đi xuyên tường của
Đại Lễ Đường Nhân Dân Bắc Kinh năm 1982.
Trương Bảo Thắng
Bộ óc con người có khả năng rất lớn, làm
được rất nhiều việc, nhưng lợi cũng nhiều mà hại cũng lắm. Cái lợi thì
trong cuộc sống hàng ngày ai cũng thấy rồi, ta không thể sống mà thiếu
điện, thiếu các phương tiện như xe cộ, máy bay, tàu thủy để đi lại, nhà
cửa để ở, quần áo để mặc, tivi, máy vi tính, điện thoại di động để làm
việc và giải trí. Nhưng cái hại cũng rất nhiều, hóa chất độc hại trong
thực phẩm, môi trường ô nhiễm, hiệu ứng nhà kính, ùn tắc giao thông, vũ
khí giết người hàng loạt, thảm họa hạt nhân…
Bộ óc cũng không có khả năng giúp con
người đem lại thái bình an lạc cho thế giới, cũng không thể giúp con
người thoát được đau khổ sinh lão bệnh tử và luân hồi. Vì vậy con người
mới cần tới một đạo lý giải thoát như Phật giáo, học cách vận dụng sức
mạnh tâm linh của Phật tánh, đây là một loại sức mạnh vô biên mà tôi có
đề cập trong Lực học Thích Ca, có thể giúp con người an lạc trong hiện
tại và những ai quyết chí thì có thể thực hành tham thiền để tự giải
thoát khỏi sinh tử luân hồi, đạt được tự do tự tại hoàn toàn, không có
gì trói buộc được, dù đó là thiên nhiên hung hãn, hay láng giềng cường
bạo, hay nhà nước độc tài phi dân chủ.
Truyền Bình