|
Vua Bimbisara quy kính Đức Phật. Tranh PGNN |
Sau khi Thế Tôn
nhập diệt, các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống cung kính tùy
thuận bậc Ðạo Sư; sống cung kính tùy thuận pháp; sống cung kính tùy thuận chúng
Tăng; sống cung kính tùy thuận học pháp; sống cung kính tùy thuận không phóng
dật; sống cung kính tùy thuận tiếp đón. Ðây là nhân, đây là duyên, sau khi Như
Lai nhập diệt, diệu pháp được tồn tại lâu dài(1).
Từ dĩa bánh mật
do hai anh em Tapussa và Bhallika phụng cúng sau khi Đức Phật thành đạo(2), cho đến bữa cơm của chàng thợ rèn Cunda trước
khi Như Lai nhập Niết bàn(3); đã xác tín
rằng, có sự liên hệ hỗ tương giữa hàng tại gia và đời sống của những bậc xuất
thế. Trên phương diện lịch sử, mối quan hệ này xuất hiện trước khi Phật giáo ra
đời và tồn tại đến ngày nay trong nhiều dạng thức tín ngưỡng, tôn giáo. Ở đây,
với tâm và tuệ siêu việt, Đức Phật đã tiếp biến và thiết định lại mối quan hệ
này theo những chuẩn mực đặc thù.
Trong các chúng đệ tử Phật, chúng tại gia có một số lượng đông đảo và giữ
vai trò quan trọng, thậm chí ảnh hưởng đến sự tồn vong của Phật giáo nói chung.
Theo Hajime Nakamura, sự kiện chúng tại gia xuất hiện trước chúng xuất gia có một
ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì ngay cả khi không có một đệ tử xuất gia nào cả,
một bậc xuất sĩ vẫn có thể an ổn sống đời tu hành(4). Đây là quan hệ tương thuộc lẫn nhau và diễn
ra trên cơ sở tự nguyện. Ở một nghĩa nào đó thì sự hưng thịnh của Phật giáo các
thời kỳ cũng đồng nghĩa với sự phát triển mối quan hệ giữa tu sĩ và cư sĩ.
Mặc dù giữa hai bộ phận này khác nhau về thứ bậc, phẩm vị và trách nhiệm tự
thân; tuy nhiên trên phương diện giữ gìn sinh mệnh Phật giáo ở nghĩa rộng nhất
có thể, thì tu sĩ và cư sĩ đều chung vai
gánh vác sứ mệnh thiêng liêng đó bằng những điều kiện và khả năng riêng
có của mình. Hướng tiếp cận đề tài phát xuất từ giác độ đó.
Về người cư sĩ
Điều kiện căn bản để trở thành người cư sĩ là phải quy y Tam bảo. Khẳng định
này được xác quyết bởi kinh Tăng chi(5) và cả kinh Tương
ưng(6). Xét về liên hệ cội nguồn, người tu sĩ là tiền
đề để người cư sĩ hiện hành. Như vậy, từ định nghĩa cho thấy, không có người tu
sĩ thì không có người cư sĩ, và đây cũng là điểm đặc thù giữa cư sĩ Phật giáo với
người tại gia nói chung.
Sau khi phát nguyện quy y Tam bảo, trở thành người cư sĩ, ngoài việc hoàn
thiện đạo đức tự thân như tuân giữ năm giới và thực hành các thiện pháp; người
cư sĩ còn có những trách vụ hỗ tương trong mối liên hệ với những người xuất gia
mà ở đây, gọi tắt là tu sĩ.
Theo Đức Phật, một người cư sĩ chân chính phải sống có trách nhiệm với
chính mình, với cha mẹ, vợ con, người làm công, thân hữu và các bậc tu hành,
trưởng thượng(7). Sự chu toàn về sáu trách nhiệm vừa nêu là
chuẩn mực đạo đức lý tưởng của một người cư sĩ. Ở đây, theo kinh Bổn phận
người gia chủ(8), Đức Phật dạy
rằng, người cư sĩ nếu đủ phước, đủ duyên thì nên hộ trì các bậc xuất gia phạm hạnh
về các nhu cầu sống thiết yếu, trên cơ sở của tự nguyện và tùy duyên.
Với người cư sĩ, dù thân phận và địa vị có khác biệt nhau nhưng nếu như có
tâm, thì vẫn có thể yểm trợ các điều kiện sinh hoạt cho Tăng-già. Trong lịch sử
kiến tạo đạo tràng, kinh điển đã lưu dấu công đức của những cư sĩ vang danh thời
Phật như thương gia Anathapindika(9), tín nữ
Visakha(10), hay quốc vương Bimbisara(11) cho đến nàng kỹ nữ Ambapali(12). Thậm chí, ngay như một người thợ gốm
Ghatikara nghèo khó vẫn sẵn lòng tháo dỡ mái tranh của mình để tu sửa ngôi thất
lá bị dột của Đức Phật Kassapa(13). Sự hỗ trợ
không gian tu là một trong những sự yểm trợ quan trọng được Đức Phật tán thán: Ai
cho chỗ trú xứ, kẻ ấy cho tất cả(14).
Ngoài việc yểm trợ không gian tu, tùy theo điều kiện, người cư sĩ có thể phụ
giúp chăm lo các điều kiện y tế, phương tiện đi lại và các điều kiện sinh hoạt
tế nhị khác cho người xuất gia. Đơn cử như bà Visakha, vì thấy các vị Tỳ-kheo-ni
gặp bất tiện trong việc tắm giặt nên đã phát nguyện suốt đời cúng y tắm mưa cho
chư ni(15). Chuyện cư sĩ Jivaka chữa bệnh đầy hơi, khó
tiêu cho Đức Phật(!6), chuyện cư
sĩ cúng giày cho Đức Phật và chúng Tăng khi đi lại trên những vùng khó khăn(17)...
Theo kinh điển, buông xả là một chuẩn mực
đạo đức của người cư sĩ. Cúng dường người xuất gia là một trong những cách thức
thể nghiệm tâm buông xả. Hơn nữa, đã là một người đệ tử Phật, thì phải có
trách nhiệm đến sự suy vong hay phát triển của đạo pháp. Sự hiện hữu của người
xuất gia là sự hiện hữu của Tam bảo. Góp duyên để người xuất gia hoàn thành sứ
mạng thiêng liêng đồng nghĩa với hạnh nguyện hộ pháp. Đây chính là phương diện
tích cực trong trách vụ hỗ trợ người xuất gia.
Mặt khác, việc yểm trợ cho người xuất gia cũng là phương cách để dành năng
lượng tâm linh tích cực, bồi bổ cho chuỗi sinh mệnh của chính mình. Vì chư Tăng
chính là thửa ruộng; cho người cầu công đức(18). Từ những ý nghĩa đó, cho nên việc hỗ tương,
yểm trợ về nhiều mặt cho người tu sĩ trong điều kiện khả dĩ của mình, là một sứ
mạng quan trọng của người cư sĩ tại gia.
Qua khảo sát kinh, luật ở hệ thống Nikaya, cho thấy sự hỗ trợ của người cư
sĩ đối với hàng xuất gia phần lớn giới hạn ở điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt
và những phẩm vật đó là kết quả của quá trình thâu hoạch đúng pháp(19).
Trường hợp của nữ cư sĩ Mātikamātā được ghi lại trong Tích truyện Pháp
cú là một gợi ý tham khảo về người cư sĩ, dù đã chứng đắc thánh quả, nhưng
vẫn hỗ trợ chư Tăng trong bốn món cần dùng(20). Chuyện kể rằng,
nữ cư sĩ Mātikamātā phát nguyện hộ trì sáu mươi vị Tăng trong ba tháng an cư.
Sau khi nghe pháp quán về ba mươi hai yếu tố về thân từ các vị này, bà miên mật
hành trì và chứng đệ tam thánh quả trước cả những vị Tỳ-kheo mà bà đang phát
nguyện hộ trì. Với sự hỗ trợ của tứ thông và những phép thần túc tương ứng, nữ
cư sĩ biết được thể trạng, tâm tư của từng vị Tỳ-kheo và hỗ trợ các điều kiện vật
chất như mong mỏi của các vị ấy. Kết thúc mùa an cư, cả sáu mươi vị Tỳ-kheo đều
chứng đắc thánh quả A-la-hán.
Từ đây có thể thấy, dù chứng đắc Thánh quả, nhưng sự hỗ trợ cho chư Tăng của
nữ cư sĩ vẫn khu biệt ở các điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt. Trong một vài
trường hợp đặc biệt, sự hỗ trợ của cư sĩ đối với hàng ngũ xuất gia liên quan đến
đạo đức cá nhân, pháp thức tu tập hoặc kết tập kinh điển chỉ xuất hiện với những
vị cư sĩ thượng căn, thượng trí, có tâm và tuệ vững vàng(21). Từ đây đã gợi mở ra những giới hạn, cũng
như phương thức hỗ tương nhu nhuyến giữa cư sĩ đối với hàng xuất gia.
Bên cạnh đó, việc yểm trợ người xuất gia thì không nên giới hạn ở một vị tu
sĩ cụ thể hay dựa vào sự thân quen. Vì Tăng là đoàn thể. Phải buông bỏ ý thức
đây là thầy mình, kia là thầy xa lạ mà phải giữ tâm bình đẳng trong khi dâng
cúng phẩm cho chư Tăng. Câu chuyện bà Gotami cúng y cho Đức Phật và được Phật
yêu cầu bà cúng cho Tăng chúng là một minh chứng cho trường hợp này(22). Đây cũng là một lưu ý quan trọng về nguyên
tắc yểm trợ chư Tăng.
Kế đến, việc phụng sự chư Tăng phải đi liền với tâm hoan hỷ. Vì khi cúng dường
với tâm hoan hỷ, thì dù cúng phẩm nhỏ nhoi nhưng vẫn có ý nghĩa lớn(23). Và hơn thế, Đức Phật sẽ không nói lời tùy hỷ với các thí chủ, dù
đó là nhà vua, nếu như không có tâm cung kính và sự gia tâm(24). Nhận thức đúng về
các điều này là những định hướng quan trọng cho người cư sĩ, trong thiện hạnh yểm
trợ người xuất gia.
Về người tu sĩ
Tu sĩ Phật giáo là người từ bỏ đời sống thế tục, nên cũng còn gọi là người
xuất gia, sống trong những chuẩn mực đạo đức và hành trì theo những pháp môn đã
được Đức Phật thiết định. Sự hiện hữu của hình bóng tu sĩ đúng nghĩa là sự hiện
hữu của Phật pháp.
Đó là câu chuyện của ngài Xá Lợi Phất khi trông thấy đạo phong trang nghiêm
của Tôn giả Assāji đã cảm sinh lòng quy ngưỡng Phật pháp, làm nhân duyên
ban đầu để được Phật hóa độ(25). Xem ra,
trang nghiêm tự thân đôi khi cũng là nhân duyên để đưa người quy ngưỡng Tam bảo.
Trong mối quan hệ với người cư sĩ của hàng xuất gia, hoạt động khất thực được
Đức Phật dành nhiều quan tâm, chú trọng vì từ hoạt động này làm nảy sinh ra nhiều
vấn đề quan thiết. Xuất phát từ thực
tế chúng sanh tồn tại là nhờ vật thực(26); cũng vậy, người xuất
gia cũng phải dựa vào thức ăn để sống, để chuyển hóa bản thân cũng như giáo hóa
người. Muốn sống thì phải khất thực, xin ăn. Với người xuất gia theo kinh tạng
Nikaya, chất lượng vật thực không là vấn đề quan ngại. Vì, người tu sĩ thọ dụng
món ăn khất thực nhằm để hỗ trợ phạm hạnh(27).
Ngay như bản thân Đức Phật, trong ba tháng an cư ở vùng Veranja, do sơ suất
của người phát nguyện hộ trì, Ngài đã phải thọ dụng nước lã và cám rang(28). Câu chuyện của ngài Maha Kassapa khi nhận
cúng phẩm từ người cùi là một sự thực rúng động. Theo tự thuật, Tôn giả Maha Kassapa vào thành khất thực, ngang qua
một người cùi với bàn tay lở loét. Kẻ ấy phát nguyện cúng cho tôn giả một muỗng
cơm, ngay khi bỏ muỗng cơm vào bát của tôn giả, ngón tay cùi kia bị đứt ra và
cùng rơi vào trong bát. Tôn giả thọ dụng tất cả những gì người cùi đã hỷ cúng
mà không sanh một chút ghê tởm nào(29). Sự kiện đó đã cho thấy, bậc xuất
sĩ lý tưởng luôn hoan hỷ và an vui với những gì nhận được.
Cần phải thấy, hoạt
động khất thực vừa là phương cách duy trì sự sống cho người tu sĩ vừa là phương
tiện để hóa độ những ai hữu duyên. Phải ý thức rằng, không phải ai xin ăn,
cũng gọi là khất sĩ(30). Vì khất thực là cả một nghệ thuật
tinh tế. Kinh Tương ưng đã ghi lại lời căn dặn của Đức Phật đối với các
Tỳ-kheo khi đi khất thực: Này các Tỳ-kheo, hãy giống như mặt trăng khi đi đến
các gia đình, thân phải dè dặt, tâm phải dè dặt, luôn luôn là người mới giữa
các gia đình, không có đường đột xông xáo(31).
Hoạt động khất thực
của người xuất gia khác với kẻ ăn xin ở chỗ là không cầu cạnh, xin xỏ(32), vì người xuất
gia lấy việc khất thực làm hạnh tu, là những vị sống vì lý tưởng mục đích,
duyên với lý tưởng mục đích; không phải vì ma cưỡng ép, không phải vì trộm cướp
cưỡng ép, không phải vì thiếu nợ, không phải vì sợ hãi, không phải vì không có
nguồn sinh sống(33). Hình ảnh vị xuất sĩ ôm bát đứng
tĩnh lặng trước từng nhà trong một khoảng thời gian vừa phải, là biểu tượng
thanh thoát, an nhiên. Do không phải cất lời xin xỏ, nên dù không có gì để
cúng, thì người cư sĩ cũng không bị ái ngại, buồn lòng. Ý nghĩa biểu tượng của hành trạng khất thực đặc thù ở điểm ấy.
Không những thế, tâm thế khi nhận vật phẩm của tu sĩ thời Phật cũng rất thanh
cao, khác biệt với việc xin ăn của người thường tục. Theo kinh Trung bộ,
những thiết định về nhận vật phẩm rất chi tiết và rõ ràng: không nhận
từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người
đàn bà đang cho con bú… không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có
ruồi bu(34).
Mục đích của những
quy định khắt khe đó nhằm thể hiện tính không thương tổn đến đối tượng được khất
thực, dù đó là một đứa trẻ, một con chó hay một con ruồi. Phần duyên khởi của
chuyện tiền thân Đức Phật số 137 kể lại rằng, vì lo phụ mẹ làm bánh cúng dường
Tỳ-kheo mà nàng cư sĩ Kānā bị chồng chối bỏ(35). Rúng động hơn, đó là chuyện nữ
cư sĩ Suppiya do vì không tìm được dược liệu thích hợp, đã tự cắt thịt đùi làm
thuốc để chữa bệnh cho một vị Tỳ-kheo(36). Do đó, Phật dạy rằng cần phải
cân nhắc khi thọ dụng cúng phẩm, phải xét xem cúng phẩm đó có gây đau khổ cho
ai không thì mới được thọ dụng. Không cân nhắc, thẩm sát trước khi thọ dụng vật
phẩm cúng dường là hành động tự sát, giống như kẻ ngậm con súc sắc đã bị tẩm độc(37).
Trong hành hoạt của
người xuất gia, việc tương giao với người cư sĩ dù đó là thứ dân hay vua chúa
thì phải hết sức cẩn trọng. Trong khi liên hệ với các bậc vương quyền, người xuất
gia cần phải chiêm nghiệm mười điều nguy hiểm được Đức Phật cảnh báo(38). Trong quan hệ với
người thường dân, kinh Tăng chi đã liệt kê năm nguyên tắc mà hàng xuất
gia không nên làm(39). Đó chính là không thân mật với người không thân tín; nếu người cư sĩ không đảm bảo độ
tin cậy thì không nên thiết lập quan hệ sâu sắc, không nên ký thác cho họ những
công việc quan trọng. Thứ hai, không can thiệp vào việc không có thẩm
quyền; người tại gia hay
gặp phải nhiều vấn đề phức tạp và đôi khi họ xin ý kiến, trong trường hợp không
đủ chuyên môn thì vị tu sĩ không nên góp ý, can thiệp. Thứ ba, không ra vào với các phần tử chống đối; bởi nếu như giữ liên lạc với những
người này thì dễ rơi vào tư tưởng phe, nhóm tạo ra những oán kết không đáng có
đối với người xuất gia. Thứ tư, không nói một bên tai; đó là hành vi khuất
tất, người xuất gia tâm, hành luôn quang minh chính đại, không có điều gì cần
phải che giấu, cho nên không cần thiết phải nói với riêng ai. Thứ năm, không
xin quá nhiều; xin xỏ đã là một hành xử không phù hợp với giới luật của người
xuất gia, và xin xỏ quá nhiều cũng là điều không hợp lẽ. Vì việc xin xỏ quá nhiều
làm thối thất tâm bồ-đề của người cư sĩ tại gia. Hành động đó, Đức Phật chê
trách và gọi rằng đó là hành động vắt sữa bò cho đến khô kiệt(40).
Về phương diện hóa
độ, việc khất thực thức ăn đôi khi cũng là một pháp thức chuyển hóa người hữu
hiệu. Đó là câu chuyện ngài Moggalana độ ông trọc phú keo kiệt(41). Chuyện kể rằng,
ông ta muốn ăn bánh bột chiên nên bảo vợ con lên lầu cao làm bánh để khỏi chia
sẻ cho ai. Quán xét nhân duyên vị cư sĩ này đến thời khai ngộ, Đức Phật cử ngài
Moggalana hóa hiện thần thông ôm bát hóa duyên ngoài không trung, gần cửa lầu vị
cư sĩ. Vừa ngạc nhiên, vừa sợ hãi và sau vài hóa hiện thần thông của Tôn giả
Moggalana, vị trọc phú đã quy ngưỡng Tam bảo.
Ở một phương diện
khác, chính bản thân Đức Phật ôm bát hóa độ Bà-la-môn Kasibhāradvāja khi
vị này đang phân phát thức ăn cho những người cày ruộng. Khi bị Bà-la-môn cật vấn
Ngài không cày ruộng thì lấy gì nuôi thân? Đức Phật khẳng định rằng, Ngài vẫn
cày ruộng đó thôi. Cách làm ruộng của Ngài lấy lòng tin là hột giống, khổ hạnh
là cơn mưa, trí tuệ đối với Ta, là ách và lưỡi cày, xấu hổ là cán cày, ý là sợi
dây buộc, và niệm đối với Ta, là lưỡi cày, gậy thúc(42). Sau cuộc hội thoại,
Bà-la-môn Kasibhāradvāja xác tín rằng: Tôn giả Gotama đi cày quả bất
tử! Không lâu sau đó, vị này đã xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Có thể nói, trách
vụ quan trọng của người xuất gia trong mối liên hệ với người cư sĩ là giảng dạy
và hóa độ họ. Đây chính là sứ mạng chính yếu của người xuất gia. Đọc kinh Giáo
giới Phú Lâu Na(43), chúng ta có thể hình dung ra sứ
mạng giáo hóa chúng sanh, bất kể nghiệp dĩ họ còn nặng nề là một sứ mạng thiêng
liêng mà hàng xuất gia cần phải gánh vác. Theo kinh, Đức Phật đã đưa ra rất nhiều
giả định, thậm chí phải mất mạng trong khi hoằng pháp, nhưng Tôn giả Phú Lâu Na
vẫn kiên định hạnh nguyện dấn thân giáo hóa cho dân chúng xứ Sunaparanta. Với
tâm lực và hạnh nguyện phi phàm đó, Tôn giả Phú Lâu Na chỉ trong mùa an cư
mùa mưa ấy, nhiếp được khoảng năm trăm nam cư sĩ; cũng trong mùa an cư mùa mưa ấy,
nhiếp độ khoảng năm trăm nữ cư sĩ(44). Câu chuyện là một bản trường ca về
tinh thần giáo hóa không nề hà khó nhọc của người tu sĩ.
Một sự tương tác
quan trọng kế tiếp giữa hàng xuất gia đó chính là tác thành giới thể cho người
cư sĩ. Nếu như người cư sĩ có thể tự mình tiếp cận kinh điển, giáo pháp bằng
cách này hay cách khác nhưng đối với giới pháp hành trì thì cần phải nương tựa
vào chư Tăng, do chư Tăng tác pháp truyền thọ. Vì ngay trong định nghĩa của người
cư sĩ đã nêu dẫn ở phần trên, yếu tố nương tựa Tăng bảo là một trong những tiêu
chuẩn cơ bản để người cư sĩ có mặt, định hình. Trường hợp quy y Tam bảo với số
lượng đông đảo lên đến 600.000 người trong lịch sử cận hiện đại tại Ấn Độ do
B.R. Ambedkar khởi xướng, là một ví dụ điển hình. Vì lẽ, mặc dù khá am tường
kinh điển và là lãnh đạo tinh thần của nhiều người nghèo khó, nhưng khi tổ chức
đại lễ quy y, B.R. Ambedkar đã phải cung thỉnh Hòa thượng Bhadant U.Chandramani
truyền Tam quy và Ngũ giới cho mình và hội chúng(45).
Theo kinh Ưu-bà-tắc
giới, việc thọ trì Năm giới hoặc Tám giới Bát quan trai của người cư sĩ đều
được truyền thụ trực tiếp từ hàng ngũ xuất gia(46). Trường hợp tự
phát nguyện thọ giới, dù đó là giới Bát quan trai chúng tôi chưa tìm thấy trong
kinh văn chính thống.
Trên bước đường độ
sinh, đôi khi người xuất gia phải tiếp cận với những hạng người còn cứng cỏi,
chưa thuần thục hay chính xác hơn là chưa phải là người cư sĩ đúng nghĩa. Trong
trường hợp này, cần phải thẩm sát kỹ lưỡng về khả năng của mình và cơ duyên của
họ. Đôi khi có những trường hợp, dù cúng dường vật phẩm, nhưng thái độ của họ
không như pháp thì không nên thọ nhận. Trong kinh Tăng chi, Phật nêu ra
tám trường hợp mà ở đây là những trường hợp tiêu biểu: họ không hoan hỷ khi
thấy Tỳ-kheo, không cẩn thận, không chu đáo khi cúng dường thức ăn, họ
cho đồ hư xấu và không thích nghe pháp(47).
Gặp phải những trường
hợp này, Phật khuyến khích Tỳ-kheo nếu chưa đến thời không nên đến, nếu đã đến
thời không nên ngồi xuống(48). Tuy khất thực xin ăn nhưng phẩm hạnh
Tỳ-kheo vẫn cao chất ngất, bởi bàng bạc trên mỗi bước chân hoằng hóa là thái độ
vô cầu. Và, đã hóa độ thì tùy duyên, khi duyên chưa chín thì không nên gượng ép
vậy.
Vài suy niệm về mối liên hệ giữa cư sĩ và tu sĩ
Cả cư sĩ và chư
Tăng đều là đệ tử Phật, chỉ khác chăng là dung nghi, hoàn cảnh sống, mức độ tu
tập, giới pháp hành trì và khả năng tâm linh. Cả hai chúng đệ tử này có sự liên
hệ, hỗ trợ với nhau chặt chẽ. Sự tăng trưởng hoặc ngược lại của bộ phận này đều
có sự tác động, ảnh hưởng đến bộ phận kia; xét về mức độ sâu xa thì đôi khi còn
ảnh hưởng tới sự phát triển hay suy vong của Phật giáo.
Trong vai trò của
mình, ngoài trách vụ hỗ trợ hàng xuất gia về các điều kiện sống, người cư sĩ
còn có trách nhiệm tương hỗ, bảo vệ hình ảnh người xuất gia. Thậm chí trong một
vài trường hợp người xuất gia bộc lộ tính chất yếu kém, sơ suất về phương diện
giới luật thì người cư sĩ tùy theo hoàn cảnh của mình mà có sự trợ duyên cần
thiết. Trợ duyên trong những trường hợp đặc biệt này không đồng nghĩa là sự bao
che, mà chính là bảo hộ và bảo bọc với tâm thương yêu và sự thấu hiểu, để rồi đề
đạt với chư Tăng ở phẩm vị cao hơn định liệu.
Cư sĩ không nên
can thiệp quá sâu vào việc của người tu sĩ. Xuất phát từ thực tế, có những người
cư sĩ nhân danh việc bảo hộ chư Tăng, trùng hưng Tam bảo, nhưng do chưa thoát
khỏi sân tâm, chưa kiểm soát được tự ngã, chưa vững chãi về trí tuệ thẩm sát;
nên việc làm của họ tuy mang danh là hộ pháp, nhưng thực tế thì gần với nghĩa
là phá đạo hơn. Chuyện đứa con đuổi ruồi nhưng sơ ý làm người mẹ chết, được Đức
Phật kể lại trong kinh Tiểu bộ(49) là những gợi ý tham khảo về việc
này.
Trong giai đoạn gần
đây, qua một số kênh truyền thông đại chúng, đã có một số trường hợp, chưa rõ
đó có phải là người cư sĩ hay không, bằng những ngôn ngữ khô cứng, đã góp ý vào
những việc chuyên sâu, liên quan đến phẩm hạnh của Tăng. Theo như Nho gia, từ
câu chuyện của Huệ Tử và Trang Tử(50), thì người đứng bên ngoài, khó có
thể biết được cái lo hay cái buồn của cá. Theo Phật giáo, là ngoại nhân, thì
khó có thể nhận hiểu đầy đủ việc của hàng xuất gia, vì không thể căn cứ vào hiện
tượng để quy kết bản chất. Đó cũng là điều được Phật dạy trong kinh Tương
ưng: phải cộng trú mới biết được giới đức của một người, và phải trong một
thời gian dài không thể khác được, phải có tác ý, không phải không có tác ý, phải
có trí tuệ, không phải với ác tuệ(51). Hơn thế nữa, căn cứ từ lịch sử kinh, luật, những việc làm vừa nêu quá xa
với vai trò của một người cư sĩ lý tưởng, theo chuẩn mực Phật dạy.
Do vậy, người cư sĩ cần phải thẩm sát thật sâu tâm và tuệ của mình trước
khi dấn thân thực hiện hạnh nguyện cao cả đó. Vì lẽ, xét trong mối quan hệ giữa
cư sĩ và chư Tăng thì tâm thế bảo vệ hình ảnh chư Tăng là bảo vệ cho chính hàng
cư sĩ. Di ngôn các con phải hoan hỷ với nhau như nước với sữa, sống nhìn
nhau với cặp mắt thiện cảm(52) được Đức Phật
lập lại trong nhiều trang kinh, vì đây cũng là cơ sở để giáo pháp được tồn tại
lâu dài(53).
Trên phương diện
ngược lại, người xuất gia phải nâng đỡ hàng cư sĩ như những người con, em trong
gia đình Chánh pháp, phải kiên nhẫn trong bước đầu hướng dẫn họ. Không trách cứ
khi họ sai lầm, miễn làm sao họ tiến triển trong Chánh pháp là được. Không ỷ lại
vì đã giúp người cư sĩ trong một vài nghi sự tang, hôn. Sự trưởng thành trong
nhận thức về Chánh pháp, sự vững chãi về phương diện đạo đức tự thân, sự tiến
triển về tâm linh của người cư sĩ có liên quan thâm thiết đến vai trò của hàng
xuất gia.
Người xuất gia phải
phát nguyện mạnh mẽ trong việc giáo hóa người cư sĩ như Tỳ-kheo Abhibhu khi đứng
ở cõi trời Phạm thiên: Hãy đứng dậy, lên đường/ Hãy dấn thân Phật giáo(54). Ở đâu người cư sĩ có nhu cầu học
Phật, thì hàng xuất gia nên phát nguyện dấn thân. Trong thực tiễn thời nay, với
những nhu cầu của hàng cư sĩ như cưới gả, ma chay; hàng xuất gia phải xem đó
như là cơ duyên để tùy duyên hóa độ mà không nên đòi hỏi bất cứ điều kiện nào.
Đi cúng để họ đến với đạo, thâm tín trong Chánh pháp chứ không phải là dịp để
mong họ tạ ơn. Phải trầm tư thêm lời dạy của Đức Phật trong kinh Tập: Ta
không hưởng vật dụng, do tụng kệ đem lại, đây không phải là pháp, của bậc có
chánh kiến(55).
Về phương diện tiếp thụ và sử dụng vật phẩm do người cư sĩ hiến cúng,
người xuất gia nên giữ tâm bình đẳng trước mọi phẩm vật cúng dường. Không dính
mắc vào tính chất của cúng phẩm, đó là thái độ cần có của một bậc xuất gia, vì Tỳ-kheo
như giọt nước, không dính trên lá sen(56). Kinh điển ghi lại rất nhiều trường hợp hàng cư sĩ cúng Đức Phật những
món trân quý, từ nhà cửa, đất đai cho đến vật dụng quý báu, Đức Phật vẫn hoan hỷ
tiếp thụ và tùy nghi xử lý. Chuyện ngài A Nan được cúng năm trăm chiếc y làm
cho vua Udena bàng hoàng và cả kinh thành xôn xao. Khi tiếp cận và được biết: tất
cả các Sa-môn Thích tử này xử sự hợp lý, không phung phí kiểu trưởng giả(57), vua Udena rất
hoan hỷ phát nguyện cúng thêm năm trăm chiếc y.
Xem ra việc thọ nhận
vật cao sang và khéo léo xử lý là chuyện thường nhật từ khi Phật giáo có mặt
trên đời này. Trên phương diện ngược lại, theo Đức Phật, sự tằn tiện, sử dụng vật
buông bỏ, phế thải chưa hẳn đã nói lên đạo hạnh của một con người. Cullavagga
ghi lại chuyện một Tỳ-kheo tận dụng cái đầu lâu khô trong nghĩa địa làm bát đựng
thức ăn, bị Đức Phật cấm chỉ và ban lời huấn thị: Này các Tỳ-kheo,
không nên sinh tồn chỉ nhờ vào các vật bị quăng bỏ(58). Thong dong giữa sự
sang trọng của cúng phẩm hay dung dị với vật dụng giản tiện, đơn sơ là hành xử
căn bản của người xuất gia.
Cần phải thấy, cư
sĩ và tu sĩ là những người con ưu tú của Đức Phật, nếu cả hai trang nghiêm tự
thân và hoàn thành những trách vụ đã được phân
định, thuận thảo và thương nhau bằng con mắt tuệ; thì Đức Phật sẽ mỉm cười hoan hỷ, vì biết rằng, ngọn
đèn sinh mệnh Phật giáo vẫn được duy
trì và thắp sáng.
Chú thích
(1) Kinh Tăng chi, chương Sáu pháp, phẩm chư Thiên, kinh
Tôn giả Kimbila.
(2) Mahacagga, Chương trọng yếu,
Tụng phẩm thứ nhất, Câu chuyện về các thương buôn Tapussa và Bhallika.
(3) Kinh Trường bộ, kinh
Đại bát Niết bàn, số 16, Tụng phẩm IV.
(4) Xem, Hajime Nakamura, Đức Phật Gotama, một
tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB.
Phương Đông, 2011, tr 323.
(5) Kinh Tăng chi,
chương Tám pháp, phẩm Gia chủ, kinh Thích tử Mahanama.
(6) Kinh Tương ung, tập
V, thiên Đại phẩm, chương XI, Tương ưng dự lưu, phần b, phẩm Phước đức sung
mãn, kinh Mahanama.
(7) Kinh Tương ưng, tập
1, chương Ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, kinh Không con.
(8) Kinh Tăng chi,
chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Bổn phận người gia chủ.
(9) Nam thí chủ
cúng dường tinh xá Jetavana.
(10) Nữ thí chủ cúng dường Lộc
Mẫu giảng đường (Migaramatu)
(11) Vua Magadha cúng dường
Trúc Lâm tinh xá (Veluvana). Xem thêm: Mahavagga, chương trọng yếu, thứ
nhất, tụng phẩm thứ tư, Sự cúng dường
Veluvana, đoạn 64.
(12) Nàng kỹ nữ cúng dường vườn
xoài làm nơi trú ngụ cho tứ phương Tăng. Xem thêm: Mahavagga, chương Dược
phẩm, thứ 6, tụng phẩm thứ Ba, Sự cúng dường vườn xoài, đoạn 77.
(13)
Kinh Trung bộ, tập 2, kinh Ghatikara, số 81.
(14) Kinh Tương ưng, tập 1, Tương ưng chư Thiên, phẩm thiêu
cháy, kinh Cho gì?.
(15)
Mahavagga, chương Y phục, thứ 8, tụng phẩm thứ nhì, Câu chuyện bà Visakha mẹ
của Migara xin dâng tám vật trọn đời, đoạn 153. Xem thêm: Kinh Tiểu bộ,
tập 8, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện đại vương huy hoàng, số 489.
(16)
Mahavagga, chương y phục, thứ 8, tụng phẩm thứ nhất, Chữa bệnh cho Đức Thế
Tôn, đoạn 135.
(17) Kinh Tiểu bộ, tập 7, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
Bà-la-môn Sankha, số 442.
(18) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, chương Ba, Đại phẩm, kinh
Sundarika Bhāradvāja.
(19) Kinh Tăng chi, chương Tám pháp, phẩm Gotami, kinh
Dighajanu, người Koliya.
(20) Tích chuyện Pháp cú, bản dịch của Viên Chiếu, phẩm Tâm, Người đọc được tâm.
(21) Các đại cư sĩ như Bimbisara, Ajatasattu, Ashoka, Kanishka… đã yểm
trợ chư Tăng về việc hình thành các thiết chế giới luật cũng như tài trợ cho
các cuộc kiết tập kinh, luật.
(22) Kinh Trung Bộ, tập 3, kinh Phân biệt cúng dường, số
142.
(23) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
khó cho, số 180.
(24) Kinh Tiểu bộ, tập 6, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
đạo sĩ Kesava, số 346.
(25) Mahavagga, chương trọng yếu, thứ nhất, tụng phẩm thứ tư, Câu
chuyện về Trưởng lão Assaji, đoạn 64.
(26) Kinh Tăng chi, chương Mười pháp, phẩm Lớn, kinh Những
câu hỏi lớn. Xem thêm: 1. 大 佛 頂 首
楞 嚴 經,卷 八.;2. 大 正 新 脩 大 藏 經 第 一 冊 No. 12, 阿 含 部, 佛 說 大 集 法 門 經 卷 上. Nguyên
văn: 一 切 眾 生 皆 依 食 住.
(27) Kinh
Trung bộ, tập 1, kinh Tất cả lậu hoặc, số 2.
(28) Kinh Tiểu bộ, tập 7, chuyện Tiền thân Đức Phật, chuyện
Tiểu anh vũ, số 430.
(29) Kinh Tiểu
bộ, tập 3, Trưởng lão Tăng kệ, chương 18, phẩm 40 kệ, Trưởng lão Maha
Kassapa.
(30) Kinh Tương ưng, tập 1, chương VII, Tương ưng Bà-La-Môn, phẩm Cư
sĩ, Kinh Bhikkhaka.
(31) Kinh Tương ưng, tập 2, chương Năm, Tương ưng Kassapa, kinh
Ví dụ với trăng.
(32) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
vua rắn Manikantha, số 253.
(33) Kinh Tương ưng, tập 3, chương 1, Tương ưng uẩn, phần d,
phẩm Những gì được ăn, kinh Người khất thực.
(34) Kinh Trung bộ, tập 2, Kinh Kandaraka, số 51.
(35) Kinh Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
con mèo, số 137.
(36) MahaVagga, chương Dược phẩm, thứ sáu, tụng phẩm thứ nhì, Câu
chuyện về nữ cư sĩ Suppiya, đoạn số 58. Xem thêm, kinh
Tăng chi, chương Một pháp, phẩm Người tối thắng, kinh Nữ cư sĩ.
(37) Kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
chơi súc sắc ngộ độc, số 91.
(38) Kinh Tăng chi, chương Mười pháp, phẩm Mắng nhiếc, kinh
Đi vào hậu cung.
(39) Kinh Tăng chi, chương Năm pháp, phẩm Andhakavinda, kinh
Đi đến các gia đình.
(40) Kinh Trung bộ, tập 1, Đại kinh người chăn bò, số
33.
(41) Kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
vị triệu phú Illisa, số 78.
(42) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, chương Một, phẩm Rắn, kinh
Bharadvaja - Người cày ruộng.
(43) Kinh Trung bộ, tập 3, Kinh Giáo giới Phú Lâu Na, số
145.
(44) Kinh đã dẫn.
(45) Theo, en.wikipedia. org.
(46) 大 正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 四 冊 No. 1488, 優 婆 塞 戒
經 八 戒 齋 品 第 二 十 一: “善 男 子, 若 有 從 他 三 受 三 歸 三 受 八 戒 是 名 得 具 一 日 一 夜 優 婆 塞 齋”.
(47) Kinh Tăng chi, chương Tám pháp, phẩm Tiếng rống con sư tử,
kinh Gia đình.
(48) Kinh đã dẫn.
(49) Kinh Tiểu bộ, tập 4, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện
nữ tỳ Rohini, số 45.
(50) 莊子南華經卷六下,
第十七 秋水.
(51) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 3, Tương ưng Kosala, phẩm thứ
hai, kinh Bện tóc.
(52) Kinh Trung bộ, tập 1, Tiểu kinh rừng sừng bò, số 31.
(53) Xem thêm, Kinh Tăng chi, chương Sáu pháp, phẩm
chư Thiên, kinh Tôn giả Kimbila.
(54) Kinh Tương ưng, tập 1, chương 6, Tương ưng Phạm Thiên,
phẩm thứ hai, Arunavàti.
(55) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, chương Một, phẩm Rắn, kinh
Bharadvaja - Người cày ruộng.
(56) Kinh Tiểu bộ, kinh Tập, chương Hai, kinh Dhammika.
(57) Cullavagga, chương liên quan đến năm trăm vị, thứ mười một, Câu
chuyện vua Udena: Sự dâng cúng năm trăm thượng y, đoạn 625. Xem thêm, Kinh
Tiểu bộ, tập 5, chuyện Tiền thân Đức Phật, Chuyện công đức, số 157.
(58) Cullavagga, chương các tiểu sự, thứ năm, tụng phẩm thứ nhất
và thứ nhì, giảng về bình bát, đoạn số 34.
Hoằng Quảng (NSGN)