Lối lý luận đó không có hợp lý. Trước hết nếu là một số Phật Tử mà thấy là
Ngoại Đạo cùng Phật Pháp là đồng thể thì những người Phật Tử đó chưa có hiểu
biết rõ ràng Phật Pháp. Thí dụ như có vài người Phật Tử đi lại dẫn Bible, kinh
Veda để nói là Chúa Trời trong Bible, hay là Brahma trong kinh Veda là đồng
nghĩa với Chân Như, Như Lai Tạng, Bản Giác Diệu Minh, Niết Bàn trong kinh Phật
đây là một sự hiểu lầm do thiếu học hỏi kinh luận mà lại tưởng lầm là cái hiểu
biết của mình là đúng.
Vajra xin trích dẫn kinh Lăng Già để các bạn đọc thấy sự khác biệt giữa Phật
Pháp và Ngoại Đạo.
Vajra không giải thích các từ
ngữ Hán-Việt ở đây là vì có ý chỉ cho các bạn thấy là nếu một Phật Tử khi đọc
kinh Phật mà còn chưa hiểu đươc các danh từ chuyên môn trong kinh Phật có ý
nghĩa gì thì làm sao mà biết được ý nghĩa của kinh Phật rồi nói là Đức Phật dạy
giống như Ngoại Đạo nói.
Vajra đoán là sẽ có các bạn nói
là Đức Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ mà cũng thông suốt lý Thiền. Vajra xin
nói là trước hết Đức Lục Tổ Huệ Năng đã được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng Kinh Kim
Cang cho nghe để nhận ra Bản Tâm thì đương nhiên là Đức Lục Tổ Huệ Năng thông
suốt lý Thiền. Trong Pháp Bảo Đàn Kinh chỉ có nói là Đức Lục Tổ Huệ Năng không
biết chữ lúc Ngài gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chứ không có nói là suốt đời của Đức
Lục Tổ Huệ Năng không biết chữ.
Tất cả các ngoại đạo trong thế
gian đều tin rằng có một Thượng Đế thường hữu toàn năng sáng tạo ra thế giới
chúng sanh và vạn vật. Các ngoại đạo đều nói rằng là Thượng Đế này là thường
còn sẵn có.
Đây là các đoạn trong kinh Lăng
Già.
Quote:
Đức Phật giảng về sự khác biệt
của Phật nói và Ngoại Đạo về ý nghĩa của Thường.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:
- Thế Tôn! Thế Tôn sở thuyết
cảnh giới thường bất tư nghì của Đệ Nhất Thánh Trí và cảnh giới Đệ Nhất Nghĩa,
chẳng phải những Ngoại Đạo sở thuyết nhân duyên thường bất tư nghì ư?
Phật bảo Đại Huệ:
- Chẳng phải nhân duyên đắc
thường bất tư nghì của ngoại đạo. Tại sao? Thường bất tư nghì của những ngoại
đạo, chẳng do tự tướng thành. Nếu thường bất tư nghì chẳng do tự tướng thành
thì cớ sao được hiển hiện thường bất tư nghì? Lại nữa, Đại Huệ! Bất tư nghì nếu
do tự tướng thành thì ắt phải là pháp thường, nếu do người làm ra thì chẳng thể
thành thường bất tư nghì, vì do làm mới có, chẳng phải thường có vậy.
- Đại Huệ! Ta nói Đệ Nhất Nghĩa thường bất tư nghì, tướng nhân thành Đệ Nhất
Nghĩa là lìa tánh phi tánh, nên đắc tướng tự giác mà vô tướng. Cái nhân của Đệ
Nhất Nghĩa Trí, vì có cái nhân lìa tánh phi tánh, ví như hư không vô tác, Niết
Bàn tận diệt, nên chính pháp ấy tự thường, chẳng do tạo tác thành thường. Như
thế, chẳng đồng với định luận thường bất tư nghì của ngoại đạo.
- Đại Huệ! Thường bất tư nghì
này do chư Như Lai Tự Giác Thánh Trí chứng đắc, nên thường bất tư nghì của Tự
Giác Thánh Trí, cần phải tu học.
- Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường
bất tư nghì của ngoại đạo chẳng có tánh thường, vì có cái nhân của tướng khác,
chẳng phải cái nhân của sức tướng tự thành. Lại nữa, Đại Huệ! Pháp thường bất
tư nghì của ngoại đạo có sở tác, tánh phi tánh vô thường, theo kiến chấp suy tư
tự cho là thường.
- Đại Huệ! Pháp ta cũng dùng
nhân duyên như thế, vì tánh phi tánh, chẳng lập sở tác, chẳng có thường kiến,
nơi cảnh giới Tự Giác Thánh Trí, nói cái thường ấy tự vô nhân. Đại Huệ! Nếu các
ngoại đạo lập cái nhân tướng thành thường bất tư nghì, lập cái nhân của tự tướng,
nói tánh phi tánh, thì đồng như sừng thỏ, vì pháp thường bất tư nghì của họ chỉ
có ngôn thuyết vọng tưởng. Các ngoại đạo có cái lỗi như thế. Tại sao? Vì chỉ có
ngôn thuyết vọng tưởng, đồng như sừng thỏ, chẳng phải do tự tướng vốn sẵn đầy
đủ.
- Đại Huệ! Pháp thường bất tư
nghì của Ta do tướng tự giác chứng đắc, lìa sở tác, tánh phi tánh, nên tự vốn
là thường, chẳng phải ngoài tánh phi tánh, suy nghĩ pháp vô thường cho là
thường. Đại Huệ! Nếu ngoài tánh phi tánh, pháp vô thường suy nghĩ cho là
thường, là cái thuyết thường bất tư nghì của ngoại đạo. Vì họ chẳng biết cái
tướng của tự nhân thường bất tư nghì vốn saün đầy đủ, nên xa cách với tướng
cảnh giới đắc Tự Giác Thánh Trí, họ chẳng nên thuyết.
- Lại nữa, Đại Huệ! Các Thanh
Văn sợ cái khổ của vọng tưởng sanh tử mà cầu Niết Bàn, chẳng biết tất cả tánh
sai biệt của sanh tử Niết Bàn là vọng tưởng phi tánh, do cảnh giới các căn thôi
nghĩ, cho là Niết Bàn, chẳng phải chuyển Tạng Thức thành Tự Giác Thánh Trí vậy.
- Thế nên, Phật đối với phàm
phu nói có Tam Thừa, nói những tâm lượng vốn chẳng thật có, họ chẳng biết cảnh
giới tự tâm hiện của chư Như Lai nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, mà so sánh chấp
trước cảnh giới ngoài tâm hiện, nên thường lưu chuyển trong vòng sanh tử.
- Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp
vốn vô sanh, ấy là quá khứ, hiện tại, vị lai chư Phật sở thuyết. Tại sao? Nói
Tự Tâm Hiện, là tánh phi tánh, lìa hữu phi hữu mà sanh. Đại Huệ! Tất cả tánh vô
sanh thì tất cả pháp như sừng thỏ, mà phàm phu ngu si, vì tự tánh vọng tưởng
chấp cho là thật.
- Đại Huệ! Tất cả pháp Vô Sanh,
là cảnh giới của Tự Giác Thánh Trí, tất cả tướng tự tánh của tất cả tánh vốn vô
sanh, chẳng phải hai thứ cảnh giới vọng tưởng nhị kiến của phàm phu, kiến lập
tướng tự tánh của sắc thân sở hữu của thân. Đại Huệ! Chuyển cái tướng năng nhiếp,
sở nhiếp của Tạng Thức mà phàm phu đọa vào nhị kiến của sanh, trụ, diệt, hy
vọng tất cả tánh có sanh, sanh những vọng tưởng hữu và phi hữu, chẳng phải
Thánh Hiền vậy.
Đức Phật nói về sự khác biệt
giữa Như Lai Tạng và Ngã của Ngoại Đạo nói
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch
Phật rằng:
- Thế Tôn! Pháp sở thuyết trong
kinh Phật nói Tự Tánh của Như Lai Tạng vốn trong sạch thường trụ chẳng đoạn,
chẳng có biến đổi. đầy đủ ba mươi hai tướng nơi thân của tất cả chúng sanh, vì
áo nhơ ấm, giới, nhập che khuất, nên bị cấu bẩn vọng phân biệt tham, sân, si sở
ô nhiễm, giống như bửu vật vô giá ẩn trong áo nhơ. Mà ngoại đạo có cái thuyết
''Chơn Ngã" là kẻ tác giả thường trụ, lìa nơi y chỉ, tự tại chẳng
diệt. Vậy, cái nghĩa '' Như Lai Tạng '' của Phật sở thuyết, há chẳng
đồng như cái thuyết '' Chơn Ngã '' của ngoại đạo ư?
Phật bảo Bồ Tát Đại Huệ :
- Ta nói ''Như Lai Tạng'',
chẳng đồng với cái thuyết ''Chơn Ngã'' của ngoại đạo. Đại Huệ! Ta có lúc
nói Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, Như Thật Tế, Pháp tánh, Pháp Thân Niết Bàn, lìa
tự tánh, Bất Sanh Bất Diệt, bổn lai tịch tịnh, Tự Tánh Niết Bàn v.v... dùng
những danh từ này để thuyết Như Lai Tạng xong, ấy là vì Như Lai Ứng Cúng Đẳng
Chánh Giác muốn đoạn dứt sự e sợ danh từ Vô Ngã của phàm phu, nên nói cảnh giới
lìa vọng tưởng, Vô Sở Hữu là Như Lai Tạng.
- Đại Huệ! Bậc Bồ Tát vị lai,
hiện tại, chẳng nên sanh ngã kiến chấp trước. Ví như thợ gốm nơi một đống đất
dùng phương tiện nhơn công, nước, cây, bánh xe quay để làm ra các món đồ gốm,
thì Như Lai cũng như thế; ở nơi pháp Vô Ngã lìa tất cả tướng của vọng tưởng,
dùng đủ thứ trí huệ, phương tiện khéo léo, hoặc thuyết Như Lai Tạng, hoặc
thuyết Vô Ngã. Do nhân duyên này, nên cái thuyết Như Lai Tạng của ta chẳng đồng
với cái thuyết chơn ngã của ngoại đạo. Vì khai mở cái trói chấp ngã của các ngoại
đạo, nên có cái thuyết Như Lai Tạng, khiến họ lìa vọng tưởng ngã kiến chẳng
thật, ngộ nhập cảnh giới ba cửa giải thoát, mong họ chóng được Vô Thượng Bồ Đề.
Cho nên Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác phải thuyết Như Lai Tạng như thế. Nếu
chẳng như vậy, ắt đồng với ngoại đạo. Cho nên, Đại Huệ! Vì lìa kiến chấp của
ngoại đạo cần phải y theo pháp Vô Ngã của Như Lai Tạng mà tu học.
Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn lặp
lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Nhơn Ngã và ngũ ấm,
Nhân duyên với vi trần.
Tự tánh vốn tự tại,
Duy tâm vọng phân biệt.
Đây là Đức Phật phân biệt giữa
Thiền của Phật dạy và Thiền của Ngoại Đạo
Quote:
- Lại nữa, Đại Huệ! Có bốn thứ
thiền.
- Thế nào là bốn? 1. Phàm Phu
Sở Hành Thiền. 2. Quán Sát Nghĩa Thiền. 3. Phan duyên hư Thật Thiền. 4. Như Lai
Thiền.
- Thế nào là Phàm Phu Sở Hành
Thiền? Là nói Thanh Văn, Duyên Giác, ngoại đạo tu hành, quán nhân vô ngã tánh,
tự tướng cộng tướng, lóng xương liền nhau, vô thường, khổ, tướng bất tịnh,
v.v... do chấp trước làm gốc. Chỉ quán các tướng như thế, chẳng quán cái khác,
thứ lớp tiến tới, tướng chẳng trừ diệt, ấy gọi là Phàm Phu Sở Hành Thiền.
- Thế nào là Quán Sát Nghĩa
Thiền? Nói quán nhơn vô ngã, tướng cộng tướng, ngoại đạo, biết tự và tha đều vô
tánh, xong quán pháp Vô Ngã, Nghĩa hành tướng của Thập Địa Bồ Tát thừa, dần dần
tiến lên, gọi là Quán Sát Nghĩa Thiền.
- Thế nào là Phan Duyên Như
Thật Thiền? Là nói vọng tưởng: hai thứ Vô Ngã là vọng tưởng; chỗ như thật thì
chẳng sanh vọng tưởng, ấy gọi là Phan Duyên Như Thật Thiền.
- Thế nào là Như Lai Thiền? Nói nhập Như Lai Địa, đắc ba thứ tướng trụ chánh
định của Tự Giác Thánh Trí thì thành tựu việc bất tư nghì của chúng sanh, gọi
là Như Lai Thiền.
Đây là Đức Phật giảng về Niết Bàn
Ở Ấn Độ hai đạo Hinduism (Bà La
Môn Giáo) và Jainism (Kỳ Na Giáo) có từ thời Đức Phật cũng nói là đạo của họ tu
dạy chứng Niết Bàn khỏi sanh tử. Hai đạo đó hiện nay vẫn dạy như vậy.
Đây là Đức Phật nói về sự khác
biệt về ý nghĩa Niết Bàn.
Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch
Phật rằng:
- Thế Tôn! Phật nói Niết Bàn,
pháp nào gọi là Niết Bàn? Mà các ngoại đạo đối với pháp Niết Bàn mỗi mỗi sanh
khởi vọng tưởng khác nhau?
Phật bảo Đại Huệ :
- Hãy chú ý nghe và khéo ghi
nhớ, Ta sẽ vì ngươi mà thuyết.
Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Cúi xin thọ giáo.
Phật bảo Đại Huệ :
- Như vọng tưởng Niết Bàn của
các ngoại đạo, vọng tưởng của họ chẳng tùy thuận Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo
diệt ấm, giới,nhập, lìa cảnh giới tham dục, thấy pháp vô thường, tâm và tâm
pháp chẳng sanh, chẳng ghi nhớ cảnh giới quá khứ, vị lai, hiện tại, thọ ấm hết
như ngọn đèn tắt, như chủng tử hoại, vọng tưởng chẳng sanh, nghĩ những cảnh
giới này cho là Niết Bàn. Đại Huệ! Họ chẳng do hoại tánh kiến, gọi là Niết Bàn.
- Đại Huệ! Hoặc có ngoại đạo
cho "từ phương này đến phương kia" gọi là giải thoát, thấy cảnh giới
của tưởng ấm diệt cũng như gió ngưng; hoặc thấy năng giác sở giác đoạn diệt,
gọi là giải thoát. Hoặc thấy mỗi mỗi tướng của tư tưởng là cái nhân sanh ra
khổ, qua suy nghĩ rồi, chẳng khéo giác tri tự tâm hiện lượng, kinh sợ nơi tưởng
mà thấy Vô Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có tưởng mà thấy Vô
Sanh, sanh tâm ưa thích, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, biết các pháp
trong ngoài tự tướng cộng tướng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai có tánh chẳng
hoại, cho là Niết Bàn. Hoặc đối với ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng tất cả pháp
ngoại, tưởng là Niết Bàn. Hoặc có ngoại đạo, trí huệ bị ác kiến thiêu đốt chấp
có ngã, kiến tự tánh làm căn bản, thấy tự tánh và sĩ phu, giữa hai có chút ngăn
cách, nói Thần ngã của sĩ phu hay sanh tự tánh, vì do sĩ phu sanh ra, gọi là tự
tánh, ví như Minh Sơ (1), Cầu Na (2) là y theo Thần ngã ban sơ sanh giác. Cầu
Na dụ cho vi trần, cho Cầu Na là tác giả, nói từ vi trần sanh tứ đại, cũng như
từ sĩ phu sanh tự tánh, rồi chấp có Thần ngã chấp cõi mười phương, cho là Niết
Bàn.
- Hoặc có ngoại đạo nói hết phước
và phi phước, hoặc nói các phiền não chẳng do tu trí huệ mà tự dứt, hoặc thấy
Cõi Trời Tự Tại ( là Thượng Đế của Bà La Môn Giáo tiếng Sanskrit là Mahesvara)
là kẻ chơn thật tạo tác sanh tử, cho là Niết Bàn. Hoặc nói chúng sanh ở nơi này
chết thọ sanh nơi khác, lần lượt luân hồi từ tám ngàn kiếp đến nay, vô nhân tự
có, do đó chấp trước sanh tử chẳng có nhân nào khác, rồi chấp trước vô nhân,
tưởng là Niết Bàn. Hoặc nói từ tự tánh sanh tứ đại, tứ đại sanh ý, ý sanh trí,
trí sanh ngũ phần, ngũ phần sanh ngũ tri căn, ngũ tri căn sanh ngũ nghiệp căn,
ngũ nghiệp căn sanh ngũ đại, gọi là hai mươi lăm Minh Đế của tự tánh, hay sanh
các pháp rồi trở về tự tánh thì lìa tất cả sanh tử. Chấp Minh Đế này cho là đắc
đạo Chơn Đế, tưởng là Niết Bàn.
- Hoặc thấy tướng nhất dị, đồng
chẳng đồng hòa hợp sanh khởi công đức như vi trần sanh khởi thế giới, vi trần
là năng tác, thế giới là sở tác, tức là công đức, cho là Niết Bàn. Hoặc thấy
vạn vật như cây gai nhọn, như sự lộng lẫy của con công và đủ thứ bửu vật, chẳng
có kẻ tác, vô nhân tự có, cho là Niết Bàn.
- Đại Huệ! Hoặc có hai mươi lăm
Minh Đế là chơn thật, và cho Lục Đức Luận là 1. Thật, 2. Đức, 3. Nghiệp, 4. Tứ
Đại, 5. Hòa hợp, 6. Đồng dị là nhân sanh ra các pháp, nói giữ được hai pháp này
hộ trì quốc độ chúng sanh, khiến được an lạc tức là Niết Bàn. Hoặc cho thời
gian là kẻ tác tạo ra thời tiết thế gian, kẻ giác như thế, tưởng là Niết Bàn.
Hoặc thấy tánh, hoặc thấy phi tánh, biết là tánh phi tánh, thấy có giác này với
Niết Bàn sai biệt mà chẳng khác, tưởng là Niết Bàn. Đủ thứ vọng tưởng so đo
chấp trước của ngoại đạo sở thuyết, nơi lý chẳng thành, bậc Trí nên bỏ những
thuyết này vậy.
- Đại Huệ! Niết Bàn vọng tưởng
của ngoại đạo, tất cả đều đoạn kiến chấp nhị biên mà họ cho là Niết Bàn. Mỗi
mỗi Niết Bàn của ngoại đạo họ tự lập luận, bậc trí huệ quán sát vọng tưởng của
họ, tâm ý khứ lai, trôi giạt lưu động, hoặc sanh hoặc diệt, lập như vô sở lập,
thật thì chẳng có kẻ đắc Niết Bàn.
- Đại Huệ! Pháp Niết Bàn của Ta
thuyết là khéo giác tự tâm hiện lượng, chẳng chấp ngoài tánh, lìa nơi tứ cú,
thấy chỗ như thật, chẳng đọa tự tâm hiện và vọng tưởng nhị biên, năng nhiếp sở
nhiếp bất khả đắc, tất cả đo lường chẳng thấy sở thành, đối với vọng chấp chơn
thật của phàm phu chẳng nên nhiếp thọ. Người xả bỏ rồi thì đắc pháp Tự Giác
Thánh Trí, biết hai Vô Ngã, lìa hai phiền não, trừ sạch hai chướng, lìa hẳn hai
sanh tử, dần dần lên chư Địa, đến địa vị Như Lai, các Tam muội thâm sâu, lìa
tâm, ý, ý thức, đều như bóng huyễn, gọi là Niết Bàn. Đại Huệ! Ngươi và các Đại
Bồ Tát cần nên tu học, chóng xa lìa tất cả kiến chấp Niết Bàn của ngoại đạo.
Đây Đức Phật nói rõ về ý nghĩ Bất
Sanh Bất Diệt khác với trong Bà La Môn Giáo (Hinduism) và Kỳ Na Giáo
(Jainism)
Khi ấy, Đại Hụê Bồ Tát lại thừa
oai thần Phật mà bạch rằng :
- Bạch Thế Tôn! Pháp Bất Sanh
Bất Diệt của Thế Tôn hiển thị chẳng có gì lạ. Tại sao? Vì lập cái nghia Nhân
của tất cả ngọai đạo, cũng nói Bất Sanh Bất Diệt, Thế Tôn cũng nói chẳng phải
số lượng duyên diệt, là Niết Bàn Bất Sanh Bất Diệt. Thế Tôn! Ngoại đạo nói nhân
duyên sanh thế gian, Thế Tôn cũng nói do vọng tưởng vô minh nghiệp ái làm duyên
sanh khởi thế gian. Họ nói nhân, đây nói duyên, ấy chỉ là danh từ sai biệt
thôi. Nhân duyên các vật cũng như thế, Thế Tôn với ngọai đạo lập luận chẳng có
sai biệt. Ngoại đạo nói vi trần, thắng diệu, tự tại, chúng sanh, chúa v.v... Có
chín sự vật bất sanh, bất diệt; Thế Tôn cũng nói tất cả tánh bất sanh, bất
diệt, hữu và vô bất khả đắc. Ngoại đạo cũng nói tứ đại chẳng hoại, tự tánh bất
sanh bất diệt, tứ đại thường là tứ đại, cho đến luân hồi lục đạo mà chẳng xa
lìa tự tánh; Thế Tôn sở thuyết cũng như thế. Cho nên con nói chẳng có gì lạ.
Nay cúi xin Thế Tôn vì đại chúng thuyết pháp đặc biệt, kỳ lạ hơn các pháp ngoại
đạo. Nếu pháp chẳng sai biệt thì tất cả ngoại đạo cũng đều là Phật,vì cùng nói
Bất Sanh Bất Diệt vậy. Lại, Thế Tôn nói nơi một thế giới mà có nhiều Phật ra
đời là chẳng có chỗ đúng, nếu theo lời sở thuyết trên thì trong một thế giới
phải có nhiều Phật, vì pháp ngoại đạo với Phật chẳng sai biệt vậy.
Phật bảo Đại Huệ :
- Ta nói Bất Sanh Bất Diệt,
chẳng đồng Bất Sanh Bất Diệt của ngoại đạo. Tại sao? Vì các ngoại đạo họ chấp
có tánh của tự tánh để đắc tướng bất sanh bất biến, Ta chẳng như thế mà đọa sự
hữu và vô. Đại Huệ! Pháp Ta nói lìa hữu và vô, lìa sanh diệt, phi tánh phi vô
tánh, mỗi mỗi pháp như mộng huyễn hiện, nên phi vô tánh. Nói Vô Tánh là sắc
tướng chẳng có tự tánh nhiếp thọ, hiện như chẳng hiện, nhiếp như chẳng nhiếp.
Do đó nên nói tất cả tánh vô tánh, cũng phi vô tánh. Hễ giác được tự tâm hiện
lượng thì vọng tưởng chẳng sanh, yên ổn an lạc, dứt hẳn việc thế gian.