Phật
giáo đã chia ra hai loại đệ tử: Xuất gia và Tại gia. Đệ Tử Xuất gia, giữ 10
giới gọi là Sa Di, giữ 250 giới gọi là Tỳ khưu (Phái nữ giữ 348 giới gọi là Tỳ
Khưu Ni.)
Đệ tử
tại gia, giữ 5 giới, gọi là Ưu bà Tắc, phái nữ gọi là Ưu bà Di.
Cả hai
hàng đệ tử, xuất gia và tại gia, đều có thể giữ Bồ tát giới, nếu tự nguyện thực
hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, Vô Ngã, Vị Tha, xả thân để cứu chúng sinh.
Hàng
xuất gia từ giã thân quyến và thế tục, cắt tóc vào chùa, có nhiệm vụ hoằng dương
Chánh Pháp, lãnh đạo tinh thần.
Hàng
tại gia còn có gia đình và bổn phận đối vớI xã hội, có nhiệm vụ hộ pháp, cung
cấp các nhu cầu, vật thực cho hàng xuất gia.
Mỗi bên
đều có địa vị, nhiệm vụ và quyền hạn riêng biệt, không dẫm chân lên nhau mà
trái lại phải kính nể, ủng hộ lẫn nhau. Đức Phật thường ví hai hàng đệ tử xuất
gia và tại gia như hai cánh của con chim, có đủ cả hai thì mới hoạt động đắc
lực được. Ngài nhấm mạnh tinh thần bình đẳng của hai hàng dệ tử, không phải chỉ
có hàng xuất gia mới tiến tu và chứng ngộ, mà hàng tại gia cũng có những người
đắc đạo như cư sĩ Duy Ma Cật, được tất cả các hàng Bồ tát, Thanh văn đều kính
trọng ngợi khen.
Dĩ
nhiên hàng xuất gia dễ tu, dễ chứng hơn hàng tại gia vì có đủ điều kiện thuận
tiện tu hành, còn hàng tại gia thì còn nhiều chuyện ở đời phải lo: Tìm kế sinh
nhai, dậy dỗ con cái, bổn phận công dân, tiếp đãi thân quyến, bạn bè, cúng
dường chư Tăng… Thời gian dành cho việc tu hành đã không bao nhiêu, lại còn bị
đời quyến rũ, thật khó tu hơn hàng xuất gia nhiều lắm. Do đó đã có câu:
“Khó nhất là tu tại gia, khó nhì tu chợ,
khó ba tu chùa.”
Vì đức Phật
chủ trương bình đẳng nên các đệ tử của ngài đều dùng sáu chữ hồng danh: Nam Mô
A Di Đà Phật để chào hỏi nhau, ví như con chùng cha, đều là anh em, không hơn
không kém. Hàng xuất gia mỗi khi gặp nhau thường hỏi ai nhiều tuổi hạ ngồi trên
(gọi là Thượng tọa), ai kém tuổi hạ thì ngồi dưới. Danh từ Thượng Tọa chỉ đặc
biệt dành riêng để dùng cho các buổi họp, sau khi bế mạc thì không còn dùng
nữa, các vị xuất gia chỉ nhận là Tỳ kheo mà thôi. Danh tử Tỳ kheo đã có đầy đủ
sự cao quý của nó, qua ba định nghĩa: Khất Sĩ, Phá Ác và Bố Ma, hà tất gì không
dùng, lại sử dụng những danh từ như Thượng Tọa, Đại Đức… chỉ làm tăng lòng tự
cao, tự đại, mắc kẹt trong hình danh, sắc tướng của thế tục là nơi các ngài đã
quyết tâm từ bỏ.
Hàng đệ
tử tại gia, khi nói với hàng xuất gia, thường tôn xưng các Tỳ kheo là Thượng
Tọa, Đại Đức để tỏ lòng tôn trọng, cung kính nhưng không biết rằng các hư danh
đó có thể chạm lòng khiêm tốn của các vị chân tu, tránh kiêu mạn và chấp ngã. Các
vị Tỳ kheo đạo cao, đức cả, với tinh thầm diệt ngã, vị tha, không ưng xưng là
Thượng Tọa, Đại Đức, mà chỉ khiêm tốn nhận là Tỳ kheo mà thôi, mỗi khi nói
chuyện với hàng tại gia, các ngài thường xưng là Bần Tăng, các ngài ít ký tên
với các danh hiệu như Thượng Tọa, Đại Đức, chức vụ này nọ (Chủ tịch, Tổng vụ
trưởng, Tiến sĩ Tổng vụ Trưởng v.v….) để diệt lòng ngã mạn, kiêu căng và cũng
tránh sự ghen ghét của người đời.
Đức
Phật chống cự phân chia cao thấp do gia cấp, do hệ thống cầm quyền, chống sự
phân biệt chủng tộc, chống sự kiêu căn ngã mạn của những người có địa vị cao
trong xã hội. Ngài chỉ chấp nhận sự hơn kém trong công phu tu hành chứng ngộ mà
thôi. Trong Giáo hội của ngài có những đệ tử xuất thân từ những giới mà xã hội
Ấn Độ lúc đó coi là giai cấp hạ tiện, như làm nghề hốt rác, đổ thùng, xấu xa,
hèn kém; nếu những vị đó được đức Phật xác nhận là đã chứng quả A La Hán thì
được ngồi trên và được các Tỳ kheo, Quốc vương, Đại thần lễ lạy, cúng dường. Trái
lại, những vị xuất gia tu hành cầu danh không chứng đắc thì dù xuất thân từ
giớI cao sang, quyền quý cũng phải ngồi dưới và tuân theo lời chỉ dạy của các
bậc A La Hán
Về phía
các đệ tử tại gia cũng vậy, một số đi chùa để mưu cầu danh lợi, chức tước, địa
vị mà cuộc đời không đưa lại cho họ. Lấy cảnh chùa làm chỗ hội họp, vui chơi,
mua bán, không phân biệt phải quấy, ủng hộ các vị Kiêu tăng phạm giới, không
chú tâm vào việc sám hối cho bớt tội lỗI, nghiệp chướng tích lũy từ vô thỉ đến
nay, không giữ giới luật, không tụng kinh trì chú cho ba nghiệp được thanh tịnh
lại còn đem các mê tín dị đoan vào chùa như xin xâm, bói quẻ, lên đồng… thì
thật là đã làm ô danh Phật giáo, sai lạc hẳn con đường cao quý của Đức Thế Tôn
hướng về giác ngộ giải thoát.
Nếu
những người có trách nhiệm lãnh đạo các hội đoàn Phật giáo mà không tự tu, tự
giác, dùng bản thân làm gương mẫu cho người khác, thì hỏi làm sao còn hưóng dẫn
cho người khác theo mình, nhất là giới thanh, thiếu niêm đầu óc còn trong
trắng, có nhiệt tâm muốn tìm hiểu đạo Phật, nhưng không thể chấp nhận những
người lãnh đạo mà không đủ tư cách.
Luật
nhà Phật bình đẳng và công bằng, ai tu nấy chứng, ai chứng thì được giải thoát,
không ai tu giùm người khác được. Những ai còn kẹt trong vòng danh lợi, tuy đã
xuất gia nhưng chỉ mong có chùa to, tượng lớn, có địa vị quan trọng, có nhiều
đệ tử cung phụng mà không chịu giữ gìn giới luật, chẳng thực hành Từ, Bi, Hỷ,
Xả, Vô Ngã, Vị tha và những điều căn bản cội rễ của đạo Phật thì dù có che mắt
được thế gian, sau khi mãn kiếp Ta Bà này, làm sao dám diện kiến Đức Phật là
đấng Chánh Biến Tri?
Kính
mong tất cả những người con Phật, dù xuất gia hay tại gia, hãy sáng suốt nhận
định tính cách bình đẳng trong đạo Phật, mà tự tu, tự giác rồi giác tha, lợi
tha; mỗi ngày hãy bỏ ra vài phút để tự hỏi: Ta đã làm những tội gì? Phạm giới
gì? Đã tạo công đức nào? Giúp đỡ những ai…rồi thành tâm sám hối, từ bỏ các ràng
buộc thế gian như tiền bạc, danh lợi, ăn ngon, ngủ ấm, sắc đẹp (Tài, Sắc, Danh,
Thực, Thùy) gác ngoài tai những xưng tụng giả dối mà quyết tâm giữ gìn giới
luât, giữ thân tâm trong sạch và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Chỉ có
vậy, chúng ta mới xứng đáng là Phật tử, là con của Phật.
(Không rõ Tác giả. Bài này do một Phật tử từ
Texas gửi đến
BBT)