Một điển hình cho hình thái này
là Tập tục Sóc, Vọng, một tập tục gắn liền với đời sống người Á Đông, và đặc
biệt là với dân tộc Việt ở miệt đồng bằng Nam bộ, nơi mà mọi sinh hoạt, giao
thông, kinh tế, văn hóa, tín ngưỡng đều ít nhiều phụ thuộc vào các con nước
thủy triều trên sông rạch.
I. TẬP TỤC SÓC VỌNG.
a) Nguồn gốc:
- Sóc: là tên gọi ngày bắt đầu
của một tháng (1), là trước, mới (2), là bắt đầu, khởi đầu (3).
- Vọng: là ngày rằm (tức ngày
15) tháng âm lịch. Vọng có nghĩa là trông xa (1), là ngày mặt trăng mặt trời
đối xứng nhau ở hai cực (2). Người xưa cho rằng vì thế mặt trời mặt trăng nhìn
rõ nhau, thấu suốt ánh sáng nhau, soi chiếu vào mọi tâm hồn con người trở nên
sáng suốt, trong sạch, đẩy lùi được mọi đen tối vẩn đục cái tâm vốn sáng suốt,
trong sạch từ trong bản thể. Chữ Vọng còn có nghĩa trông mong (3), ước mong,
người xưa lấy ý nghĩa này kết hợp với ý nghĩa trước để làm ngày cầu nguyện. Người
ta tin rằng ở ngày này nhờ sự thông suốt của mặt trời, mặt trăng mà thần thánh,
ông bà, tổ tiên sẽ thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm
ứng với các cõi khác và sự thông cảm tha thứ sẽ được đáp lại.
b) Ý nghĩa:
Trải qua quá trình lịch sử và
ảnh hưởng của các trào lưu tôn giáo, ngày Sóc, Vọng được nhận thức ở mỗi nơi có
khác ít nhiều tùy theo con người, thổ nhưỡng và tín ngưỡng chủ đạo. Nhưng việc
cúng lễ ở hai ngày này giống nhau và coi như là một lễ chung cho cả hai ngày
không khác. Người xưa coi ngày Sóc, Vọng là ngày tưởng nhớ tổ tiên, cúng bái
ông bà, là ngày nghỉ ngơi trong lao động sản xuất và là ngày chay tịnh để sửa
mình.
Theo truyền thống của Nho, Lão
giáo, ngày Sóc, Vọng là ngày "Thiên địa mở thông", là sự thông thương
của tất cả mọi chướng ngại giữa ba cõi (Thiên, Địa, Nhân). Trời sẽ chứng giám
cho hành vi của con người, ông bà tổ tiên sẽ về cảm nhận lòng thành của con
cháu, và quỉ thần ám chướng sẽ lui khỏi những ngày này không nhiễu hại ai.
Ngày Sóc, Vọng còn có ý nghĩa
"Cát tường" tức là ngày lành tốt nhất trong tháng. Và ý này được chấp
nhận chung cho cả quan niệm phương Đông ở Nho - Phật - Lão, như ngày Chúa nhật
của phương Tây với Thiên Chúa giáo.
Đối với Phật giáo, ngày Sóc,
Vọng là ngày "Trưởng tịnh" tức là ngày trong sạch nhất. Ngày này,
những tu sĩ ở chùa thường làm lễ Bố-tát tức là kiểm điểm hành vi của mình và
tụng giới luật, còn lễ chính thức cho nhân dân và người theo đạo Phật đó là lễ
"Sám hối" nên còn được gọi là ngày Sám hối. Ngày này mọi người tụ tập
về chùa vào lúc màn đêm vừa buông xuống để cùng các vị Tăng lễ Phật, sám hối
cầu nguyện bỏ dữ làm lành sửa đổi thân tâm.
c) Sự du nhập:
Ngày Sóc, Vọng có điểm xuất
phát từ khi hình thành nên âm lịch ở nước Trung Hoa Cổ đại. Trải qua bao thời
đại, nước Trung Hoa gồm thâu thiên hạ trở thành một đất nước cường thịnh, phát
triển mọi mặt về văn hóa, quân đội và Nhà nước phong kiến. Vua quan phong kiến
nước Trung Hoa vẫn tiếp tục mộng bá quền, coi mọi dân tộc đất nước lân bang
khác là chư hầu, dùng bạo lực xâm lược để trấn áp và bành trướng nền văn hóa
của họ để cai trị, đồng hóa.
Chính vì thế văn hóa Trung Quốc
đã truyền vào Việt Nam
và nhân dân ta đã hấp thụ âm lịch cùng chấp nhận nó. Ban đầu ảnh hưởng Lão
giáo, Khổng giáo gắn rất chặt vào các ngày lễ theo văn hóa Trung Quốc, nhưng về
sau nhân dân chỉ chấp nhận sử dụng âm lịch và biến ngày Sóc, Vọng thành ngày
cúng ông bà của dân tộc mình, rồi tiếp tục nhận ảnh hưởng Phật giáo vào tập tục
đó để đầy dần ảnh hưởng Nho - Lão giáo ra, hình thành nên nét riêng của dân tộc
trong ngày Sóc, Vọng.
Tập tục Sóc, Vọng theo chân
những người Việt di dân khai phá vùng đất mới mà vào Nam bộ. Chính ở đấy, đã hòa hợp vào
những con người tứ xứ và đất đai mà có những hình thái sinh hoạt đặc thù mà
người viết đang nghiên cứu cái đặc thù ấy nơi bài này.
II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
CHI PHỐI TẬP TỤC NHƯ THẾ NÀO?
a) Ngày Trưởng tịnh:
Như đã dẫn, ngày Sóc, Vọng còn
được gọi là ngày Trưởng tịnh, sám hối và ăn chay, ba ý nghĩa ấy xuất phát từ
ảnh hưởng của Phật giáo.
Đúng ra, ngày Trưởng tịnh đã
được Phật giáo hóa từ khi Phật giáo Đại thừa truyền vào Trung Hoa ở phương Bắc
và truyền vào các nước theo Phật giáo Tiểu thừa ở phương Nam. Và ở Nam bộ, là điểm
hội tụ của cả hai hệ phái Phật giáo ấy trong tập tục Sóc, Vọng, vì Phật giáo
Tiểu thừa sử dụng lịch Ấn Độ không sử dụng âm lịch Trung hoa, nhưng ngày làm lễ
Bố-tát của họ cũng được quy định bằng ngày trăng sáng và ngày không trăng. Vì
vậy, ngày Sóc, Vọng ở Nam bộ, nơi vùng đất cũ của người Khơme còn sinh hoạt tín
ngưỡng Phật giáo Tiểu thừa, cộng với tín ngưỡng Phật giáo Đại thừa được mang
đến từ người Việt lưu cư, đã hòa quyện nhau trở thành ngày của Phật giáo mang
đặc điểm khác biệt với Trung bộ và Bắc bộ về Sóc, Vọng.
c) Ngày Sám hối:
- Đêm mồng một:
Ở Nam bộ không có thói quen gọi là
ngày Sóc, Vọng, mà người ta thường gọi một cách quen thuộc là ngày rằm (tức
ngày Vọng - 15) và ngày mồng một (tức ngày Sóc - 30,1). Không khí của ngày rằm,
mồng một ở đây được coi là những ngày quan trọng hơn mọi ngày trong tháng.
Nhân một chuyến đi khảo sát tại
Bình Đại, Bến Tre cho bài khảo cứu này vào một tối 29 (vì là tháng thiếu), mới
hơn 6 giờ chiều, trời đã tối không thấy rõ mặt người, đêm cuối tháng quả là một
đêm trừ tịch, lại ở vùng quê chưa hề có điện, người viết ngồi từ một quán ở đầu
xóm nằm trên con đường cái của làng, đã nhìn thấy một quang cảnh rộn rịp khi
tiếng chuông chùa bắt đầu ngân vang trong đêm vắng. Từng nhà, từng nhà người ta
đi ra với tay cầm những con cúi (<$F Một loại bó bằng lá dừa khô, đốt lên để
cầm đi đường.>1) đưa tới đưa lui để có ánh sáng soi đường, đồng một hướng đổ
về ngôi chùa có tiếng chuông ngân.
Thật là một cảnh tượng sống
động trong đêm với hằng loạt đốm lửa con cúi đổ về một hướng như lễ hội rước
đèn. Nào là đàn ông, đàn bà, các cụ già và một ít các người trẻ, đa số là nữ
như tục ngữ có câu: "Đình là của các ông, chùa là của các bà". Họ ăn
mặc khá tề chỉnh so với lúc sinh hoạt ban ngày, người nào tay cũng có bó bông,
hoặc nhang, trái cây, họ đi với tâm trạng thơ thới nhẹ nhàng, vui vẻ nhưng
trang trọng để chuẩn bị dự lễ Sám hối nơi ngôi chùa làng mà tiếng chuông vang
đang dần dần thôi thúc.
Người ta không đi chùa hết,
những người ở lại nhà và các gia đình không theo Phật giáo nhưng thờ ông bà bày
đồ cúng ra bàn Thiên (Loại bàn như cái khay đóng trên một cây cột trước nhà)
lên nhang đèn cúng vái trời Phật giữa đêm tối như một chuỗi hoa đèn trông thật
có ý nghĩa. Một bà lão ở quán cho người viết biết: "Đó là tục lệ thường
xuyên của dân xứ này trong đêm rằm mồng một, ngày thường thì không như vậy, họ
chỉ thắp hương nơi bàn Thiên mà thôi, không có sáng sủa như đêm nay.
- Đêm trăng rằm:
Đặc tính của đêm trăng rằm là
con nước đầy. Vì thế, nét sinh hoạt trên quê hương sông nước là một nét đặc
trưng của Nam
bộ trong sinh hoạt nhân dân, nhất là đối với ngôi chùa ở miệt này.
Một chuyến đi khác tại Nha Mân,
Đồng Tháp vào trong đêm trăng tròn, người viết được chứng kiến ánh trăng trải
đầy trên mọi con sông rạch, lũ lượt ghe xuồng đổ về ngôi chùa Hội Phước, ngôi
chùa lớn của địa phương nằm bên con rạch. Trước bến chùa, đã đầy chật ghe xuồng
neo đậu, tiếng chào hỏi, những bó bông vườn hay trái cây, nhang đèn được đem
đến dâng cúng lên chùa. Ngày hội trăng Rằm này là nơi gặp gỡ tốt nhất của họ
sau nửa tháng lao động. Họ đến chùa dự lễ Sám hối xong, còn ngồi nán lại hiên
chùa hàn huyên, lớp trẻ thì dạo chơi ở vườn hay các quán nhỏ, chỉ mở ra vào
những ngày này. Sau một khoảng thời gian độ 9 giờ đêm, bến ghe lần lượt tan khi
họ ra về. Lúc này trăng đã chếch bóng trên bầu trời, đối với người dân làng đi
chùa lễ Phật đêm Rằm, đây là khoảnh khắc sung sướng nhất, không vội vã, với tâm
trạng an lành, ung dung chèo xuồng dưới ánh trăng đêm tỏa xuống mặt sông của
con nước Rằm đầy ắp, là cả một sự tươi mát thơ mộng và nhẹ nhàng của tâm hồn họ
sau khi lễ Phật, mà không dễ gì người ở thành thị có được.
Những hình ảnh và cuộc sống như
thế lần lựa theo ngày tháng trôi đi lập lại trên khắp xóm làng Nam bộ, nó in vào
tâm trí con người khi lớn lên, dù cho họ có ra đi phương trời nào đi nữa, vì
cuộc sinh kế, vẫn không thể phai mờ trong ký ức về quê hương của mình, đậm nét
ngôi chùa, đêm Rằm, lễ Phật, vui chơi... Hình tượng nghệ thuật này từng được
một thi sĩ thể hiện cảm xúc:
Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh,
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi,
An ủi dân hiền mọi mái tranh...
Trầm đốt hương thơm bay ngạt ngào,
Thôn trên xóm dưới dạ nao nao,
Dân làng tắm gội lên chùa lễ,
Mười bốn, ba mươi mỗi tối nào...
(Trích bài thơ "Nhớ
chùa" của Nguyên Không, đăng trên tạp chí Phật giáo Việt Nam, xuất bản năm
1956, Đà Lạt.)
c) Ngày ăn chay:
Ăn chay, hay còn gọi là ăn lạt,
phát xuất từ quan niệm từ bi của Phật giáo Đại thừa, khuyên tối thiểu mỗi người
theo đạo Phật phải tập ăn chay mỗi tháng là hai ngày rằm và mồng một.
Ngày chay là một bộ mặt khác
của chợ búa - điểm hội tụ sinh hoạt sôi động nhất cho nhu cầu con người hàng
ngày. Những loại thức ăn chay được bày bán, những quán đồ chay được mời chào và
phong cách mọi người cũng khác đi khi họ ăn chay. Một điểm nữa là bông trái
được bày bán la liệt, có thể nói ngày Sóc, Vọng là một ngày đầy màu sắc với
bông hoa rực rỡ, người làm vườn thì chở hoa ra chợ và mỗi người đi chợ đều mang
về một bó hoa trong giỏ. Nét nghiêm túc được thể hiện nơi mọi người, việc sát
sanh tranh cãi được hầu như gác lại để dành cho cái thiện ở mỗi người thể hiện
ra.
III. CÁC HÌNH THỨC SINH
HOẠT NHÂN DÂN
a) Sự khác biệt giữa các ngày
Sóc, Vọng trong năm:
Mặc dù năm tháng trôi qua như
mặt nước hồ phẳng lặng đều đặn như nhau, thế nhưng ở cùng ngày Sóc, Vọng trong
năm cũng có những hình thức sinh hoạt khác biệt nhất định của nó. Trong đó ảnh
hưởng Phật giáo hầu như gói gọn tất cả mọi ngày lễ ấy. Có thể lập được biểu đồ
để so sánh các ngày lễ lớn của Sóc, Vọng như sau theo ảnh hưởng Phật giáo:
NGÀY SÓC
- 30 - 1 tháng Giêng (Tết âm
lịch), Lễ Vía Phật Di-lặc
- 30 tháng Bảy: Lễ Vía Địa Tạng
Bồ-tát.
NGÀY VỌNG
- Rằm tháng Giêng: Lễ Cầu phúc,
cầu an, hành hương.
- Rằm tháng Hai: Lễ Phật nhập
Niết bàn.
- Rằm tháng Tư: Lễ Phật đản.
- Rằm tháng Bảy: Lễ Vu-lan, báo
hiếu, xá tội vong nhân.
- Rằm tháng Mười: Lễ Cúng rằm.
Trong đó:
- 12 ngày Sóc
- 2 Đại lễ.
- 10 lễ bình thường.
- 12 ngày Vọng
- 5 Đại lễ.
- 7 Lễ bình thường.
b) Những quan niệm khác nhau về
ngày Sóc, Vọng:
Cái gì đã đi vào truyền thống
dân gian thì đều mang trong tự bản thân nó tính chất hòa nhập xã hội và phản
ảnh xã hội của địa phương chấp nhận nó. Bên cạnh đó, là quan niệm của các tầng
lớp nhân dân trong mối quan hệ tập tục này về hình thức sinh hoạt và tâm lý. Đi
sâu vào khảo sát, ta thấy các quan niệm của họ về ngày Sóc, Vọng như sau:
1. Đối với người tín ngưỡng dân
gian:
Tín ngưỡng dân gian ở đây thể
hiện ở đình và miếu. Một bộ phận nhân dân trong ngày Sóc, Vọng sẽ đến đình hay
miếu của làng mình để đốt nhang, chưng dọn quả phẩm cúng Sóc, Vọng. Thực ra
ngày Sóc, Vọng chỉ là ngày lễ bình thường mở cửa cho mọi người đến viếng và lễ
như thường lệ mà thôi, chứ không phải là có lễ gì đặc thù trong những ngày này.
Bởi đó là ngày nghỉ ngơi của nhân dân với quan niệm hướng về đạo lý truyền
thống.
+ Đình là biểu tượng của làng,
quan niệm về ngày Sóc, Vọng mang ảnh hưởng Nho giáo, mặc dù các Thần làng được
thờ là các vị công thần thời phong kiến Việt Nam có công ở làng hoặc là anh
hùng dân tộc. Sinh hoạt chủ yếu là tế lễ định kỳ với Lễ Sinh dâng cúng, và họp
mặt hội đình để bàn việc làng nước, trùng tu, tương tế v.v... Đối tượng chính
của đình là các bô lão chức sắc của làng và nam giới, họ đến đình để được phân
công các công việc và thực hiện như một bổn phận đối với nghĩa vụ công cộng của
địa phương mình.
+ Miếu, hay còn gọi là miễu, là
nơi tín ngưỡng dân gian thờ Bà, gồm các vị thánh dân gian như: Năm Bà Ngũ Hành,
Bà Thiên Hậu, Bà Chúa Xứ, Bà Đen (Linh Sơn Thánh Mẫu), Bà Mẹ Sanh, Mẹ Độ, Thánh
Anh, Kim Huệ v.v... Và đặc biệt là bất cứ miếu nào cũng đều có thờ Quan Thế Âm
Bồ-tát, mà dân gian gọi là Phật Bà. Ngày Sóc vọng ở miếu có phần rộn rã hơn
đình, qui tụ một bộn phận nam phụ lão ấu mà đa số là phụ nữ. Sinh hoạt của họ
trong những ngày này là cúng rằm và lễ cầu an, tụng kinh Phổ Môn, kinh của Phật
giáo. Sau đó là họp hội miếu bàn việc tương tế phước thiện giúp đỡ những hoàn
cảnh tang tế khó khăn của người trong Hội.
2. Đối với người theo đạo Phật:
Phật giáo đối với nhân dân Nam bộ
có mối gắn bó lâu đời trên mảnh đất này, hóa quyện với đạo Phật của người Khơme
vốn có tự lâu đời. Tuy nhiên người Khơme sử dụng lịch Ấn Độ trong sinh hoạt, so
với ngày Sóc, Vọng của người Việt với ảnh hưởng Phật giáo Đại thừa, về hình
thức sinh hoạt có khác nhau nhưng quan niệm như nhau.
3. Đối với người không theo tín
ngưỡng:
Ngày Sóc, Vọng đối với họ như
là ngày nghỉ ngơi trong lao động, nhưng có khác là họ vẫn coi như hai ngày
truyền thống đạo lý, ngày lành nhất để sắm sửa cúng kiến ông bà tổ tiên. Quan
niệm của họ là ngày cúng ông bà, là bổn phận chữ hiếu đối với người quá cố và
giáo dục con cái theo truyền thống đạo lý đặc thù của dân Nam bộ: Hiếu và Nghĩa. Mọi hành
động bất thiện, những nghề nghiệp thấp kém đều hạn chế hoạt động trong ngày
Sóc, Vọng, như là nghề: mổ heo, bán rượu, cờ bạc v.v...
IV. GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG
ĐẠO LÝ DÂN TỘC:
a) Nói truyền thống, tức là nói
đến mặt lịch sử của tập tục. Trải qua bao đời, ngày Sóc, Vọng đã trở thành tập
tục của người Việt Nam trong
bối cảnh cụ thể đất nước - và riêng ở Nam bộ. Đặc biệt là gắn vào sự phát
triển kinh tế nông nghiệp lúa nước - một nền nông nghiệp tùy thuộc vào con nước
tự nhiên được tính toán bằng âm lịch một cách chính xác theo điều kiện sinh
thái của miền Nam.
Từ đó, văn hóa được dựa vào bối cảnh nông nghiệp ấy mà phát triển phù hợp với
đất nước con người, được qui định bởi xã hội ấy.
Một ví dụ để chứng minh: Trong
ngày Sóc, Vọng, là ngày con nước đầy ở mức cao nhất không có ròng sát, thì công
việc đồng áng hầu như phải gác lại toàn bộ, không có thể cày cấy gieo trồng,
chỉ có thể ngh ngơi bơi xuồng đi lại thăm hỏi nhau hay dự hội hè đình đám vui
chơi, hoặc dự lễ nơi chùa chiền yên tĩnh...
b) Nói về đạo đức, tức là nói
đến tính xã hội của tập tục. Đối với xã hội Nam bộ, ngày Sóc, Vọng là dấu ấn
đậm nhất trong mọi sinh hoạt của họ, một ngày lành tốt để làm việc thiện, để
răn mình đừng làm điều xấu trong công việc, hành vi ngôn ngữ và tư tưởng. Ở
thành phố, chúng ta có thể không thấy được ảnh hưởng tư tưởng của những ngày
này, vì xã hội công nghiệp chú trọng đến dương lịch, Chúa nhật và ngày nghỉ lễ
là ngày vui chơi. Nhưng ở xã hội nông nghiệp thì ngày âm lịch chi phối tất cả,
và ngày nghỉ là ngày Sóc, Vọng với một ý nghĩa đạo đức thanh thản tâm hồn chứ
không phải vui chơi.
Đối với người dân Nam bộ
ở miền quê, thì ngày Sóc, Vọng luôn ở trong tâm khảm họ suốt những ngày ấy.
Khảo cứu qua tâm lý các tầng lớp ta thấy:
+ Đối với người già, đây là
ngày nhắc nhở con cháu cúng ông bà, làm lành lánh dữ, và họ đi đến chùa chiền
đình miếu để gặp gỡ nhau như hình thức câu lạc bộ bây giờ.
+ Đối với người trung niên, lao
động chính của gia đình, đây là ngày nghỉ ngơi sau mọi vất vả lao động, để sống
với gia đình, hoặc chè chén bàn luận nhân tình thế sự, kinh nghiệm lao động.
+ Đối với tầng lớp thanh thiếu
niên, đây là ngày được phép đến chùa để "công quả", một hình thức của
việc từ thiện xã hội, học tập đạo đức làm người và được gặp gỡ trao đổi tình
cảm vui chơi với nhau.
+ Đối với trẻ con, các em coi
đây là những ngày thiêng liêng, có thể nhận được sự tha thứ mọi lỗi lầm của
mình nơi người lớn đến đình chùa, và được hưởng những phần bánh trái sau khi
cúng bái.
Đời này tiếp nối đời khác sống
trong tinh thần đạo đức như thế, tính xã hội được định hình qua ngày Sóc vọng
ăn vào nếp nghĩ của con người từ khi tấm bé cho đến trưởng thành tựa như một
bức tranh đậm nét thực và ảo khắc vào tâm trí họ hình ảnh quê hương thân yêu.