Một Hồ Xuân Hương mắng bọn dốt
đến cửa thiền, đề thơ dở làm dơ bẩn cửa chùa, "muốn sống đem vôi quét trả
đền", mà lại viết những câu thơ tối tăm, dùng chữ gượng ép: "đáo nơi
neo", "trưa trật nào người móc kẻ rêu", Xuân Hương đến chùa mà
uống "rượu lưng hồ", một trong năm giới cấm nhà Phật.
Những câu thơ bẩn thỉu hạ cấp,
gượng ép, dốt đặc cán mai về Phật Giáo, chỉ biết đả kích đạo Phật qua bề ngoài:
sư đầu trọc lóc, áo không tà, lần tràng hạt "đếm lại đeo", giọng hi
ha... hay kết án những điều vô chứng cớ: "vãi núp sau lưng sáu bảy
bà", sư mà có đến sáu bảy bà vợ mà làng xóm, đồng bào Phật tử để yên cho
sao?
Những bài thơ tệ hại ấy, những
câu thơ nguyên tác bị sửa đổi, được gán cho Hồ Xuân Hương từ một thế kỷ nay,
thậm chí các nhà văn học tiếng tăm cũng không dám suy xét nguồn gốc từ đâu,
không ai dám đụng đến, thậm chí còn say sưa ca tụng như những câu thơ
"cách mạng" giải phóng phụ nữ, đập đổ phong kiến?
Những khám phá các văn bản thơ
Hồ Xuân Hương của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo sư Trần Văn Giáp, Học giả Trần
Thanh Mại... thơ văn Hồ Xuân Hương ở Paris và Việt Nam đã đánh đổ những bài thơ
ngụy tạo gán cho Hồ Xuân Hương nhằm đánh đổ Phật Giáo mới được sáng tác vào
thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20: Hang Thánh hóa, Chùa Quán Sứ,
Sư bị làng đuổi, Vịnh sư, Vịnh Ni sư, Chùa xưa.
Trái với các bài thơ ngụy tạo
gán cho Hồ Xuân Hương, các bài thơ có chứng cớ tác giả Hồ Xuân Hương đề vịnh
cảnh chùa cụ Trần Văn Giáp tìm thấy chép trong Phượng Sơn từ chí lược, Gs Cao
Huy Du cũng tìm thấy trong thư viện của Cao Xuân Dục, bài thơ đề Trấn Quốc Tự
tìm thấy trong tủ sách gia đình Trần Văn Hào ở Quần Phương, Hải Hậu tỉnh Nam Hà
và Thư viện Quốc gia, Thơ Hồ Xuân Hương Gs Hoàng Xuân Hãn tìm được tại kho sách
Hán Nôm, Thư viện Quốc gia Paris... cho ta thấy Hồ Xuân Hương là một người
"học rộng và thuần thục" đúng như lời Tốn Phong viết trong Lưu Hương
Ký, bà tinh thông Tam Giáo, Phật, Nho, Lão, nhất là về Phật Giáo bà có một kiến
thức khá rộng và uyên bác. Tám bài thơ Vịnh Cảnh Ðồ Sơn, tôi dịch như sau:
Bài I - Hóng Mát Ðông Sơn
Ðông Ðồ Sơn núi gọi Ðông Sơn,
Yên ngựa hình non xa thoáng trông,
Cổ tự, cổng thiền rừng thấp thoáng,
Hang Giang cửa động đá mênh mông.
Thả thuyền khách hát trong trăng sáng
Nằm khểnh ai say giữa thạch bàn,
Non núi nào hay dâu biển mải,
Bên trời sừng sửng chắn cuồng phong.
Bài 2 - Qua chơi giếng rồng
Dưới núi Ngọc Sơn dòng nước trong,
Thấm hòa xuyên đá rót trăm sông,
Hồn như nước ngọc lên ngời sáng,
Hơn thể rãi rồng tỏa ngát hương,
Róc rách tưới lên ngàn gốc đỏ
Chan hòa dòng thắm vạn đồng xanh,
Há riêng giếng nước cho thôn ấp,
Chu cấp Vương Minh, phước báu ban.
Bài 3 - Phật động thâm u
Tương truyền dấu Phật tại Linh Sơn,
Nay được sơn ông chỉ đỉnh non,
Cửa động nông sâu cây cỏ dại,
Chữ mờ phai nhạt dấu rêu mòn.
Ngoài hồ đèn thả, cầu soi bóng,
Bến nước khe trong, chẳng cạn dòng,
Sắc tức thị không, không thị sắc
Thiền gia hiểu thế việc trần gian.
Bài 4 - Lên chơi đông sơn tự (Hai bài)
1.
Ðông Sơn cảnh chiếm một hồ riêng,
Uyên báu bay về, khói pháp chen,
Ðá núi điểm đầu, mưa phất xuống,
Ngàn hoa nở rộ, gió tung lên,
Ðế Bà hương hỏa thơm bên xóm,
Trịnh Chúa xe qua vết cũ còn,
Cứu độ bè từ qua bể khổ,
Chim âu ngủ đứng bến ngư thôn.
2.
Cò trắng qua sông nước nối trời,
Chùa thiền một cảnh khói mây trôi,
Nữ Vu trị thủy không đông hạ,
Ngư phủ thuyền qua sau trước bơi.
Ngộ đạo Cao tăng mang gậy xuống,
Hiện thân Phật Tổ đến đây rồi.
Một mình lên núi Ðông Sơn dạo,
Thi hứng đầy thuyền trăng sáng soi.
Bài 5 - Lên núi nhớ xưa
Tháp cũ nền xưa cỏ dại tràn,
Dục Vương xa vắng cảnh hoang tàn,
Ngàn cân bảo khí reo bên nước,
Chín bậc phù đồ gạch ngói tan,
Tiều tử tựa rìu bên đá ngủ,
Mục đồng xua nghé xuống đồi hoang,
Lên cao muốn hỏi sơn tăng đạo,
Chuông vắng đâu đây vọng cuối ngàn.
Bài 6 - Bến đá xem đánh cá
Gió im sóng lặng dạo bên sông,
Ngắm ngắm thuyền chài giang giăng hàng,
Tay kiếm hang rồng sông mở lối,
Lưới quăng chợ hến sóng cờ dâng,
Bà buôn xách giỏ vin khoan cuối,
Ông lái gõ chèo chén rượu nâng,
Hoặc lúc quẻ ly, khi quẻ hoán,
Thánh nhân định vật, ý người trần.
Bài 7 - Thiền định ở
chùa cốc
Thần bào quỹ đẽo tự bao niên,
Hình thể an bài sẵn tự nhiên,
Mái chẳng ngói tranh, thềm chẳng trát,
Vách như tường lát, đá như sườn.
Ðàn dơi cúng trái dài sen quý,
Ong mật dâng hoa trước án hương.
Sóng vỗ, ca tiều, chim chóc hót,
Sư già chợt tỉnh giấc miên mang.
Bài 8 - Dạo chùa khánh minh cảm hứng
Phạn Vương đi khỏi bao giờ lại,
Còn để Kỳ Viên cỏ mọc đầy,
Khánh đá có duyên dời viên khác,
Chuông không giá móc vất bên đài,
Ngói tan, xà mục chim làm tổ,
Bệ vỡ, bia mòn rêu biếc vùi,
Giá được ngàn tay như Phật Tổ,
Hư không một tối dựng lâu đài.
Nguyên tác phiên âm Hán-Việt
Ðồ Sơn bát Vịnh
1 - Ðông Sơn thừa lương
Ðồ Sơn chi đông viết Ðông Sơn,
Dao vọng sơn hình tự mã yên,
Cổ tự môn tòng lâm lộc xuất,
Giang phi động tại thạch bình gian,
Phiếm châu hữu khách ca minh nguyệt,
Cao ngận hà nhân túy thạch bàn,
Sơn đỉnh bất tri tang hải biến,
Ngật nhiên chi trụ chướng cuồng lan.
2 -
Long Tỉnh quá trạc
Ngọc sơn sơn hạ tiểu khê biên,
Xuyên thạch quyên quyên chú bách xuyên,
Nhuận hoạt hồn như hòa ngọc dịch,
Thanh hương sai khả thắng long diên,
Dư ba tư tưởng thiên chu thụ,
Lưu trạch xuyên xuyên vạn lục điền,
Tinh diệp khởi ưng tư nhất ấp,
Vương Minh dụng cấp phúc di thiên.
3 -
Phật động tầm u
Truyền văn Phật tích tại Linh san,
Cận đắc sơn ông chỉ thử gian,
Ðộng khẩu thiển thâm hoang thảo kính
Tự ngân nồng đậm ấn đài ban,
Phóng đăng hồ ngoại kiều do tại,
Cấp thủy biên khê tỉnh bất can,
Sắc tức thị không không thị sắc,
Thiền gia đương tác như thị quan.
4 -
Ðăng đông sơn tự kiến ký (Nhị thủ)
1. Ðông sơn cảnh chiếm nhất hồ thiên,
Bảo áp phi lai pháp giới yên,
Nham thạch điểm đầu hoàn vũ hạ,
Thiên hoa mãn thụ lộng phong tiền,
Ðế Bà hương hỏa phương lân cận,
Trịch Chúa xa luân cựu tích truyền,
Phổ độ hàng từ siêu khổ ải,
Thuần âu than hạ túc ngư thuyền.
2. Bạch lộ hoành giang thủy tiếp thiên,
Tùng lâm nhất thốc cách vân yên,
Nữ Vu trị vũ vô đông hạ,
Ngư phủ phi điêu hoặc hậu tiền,
Ngộ đạo cao tăng huề tích khứ,
Hiện thân Cổ Phật đáo kim truyền,
Ðăng lâm độc bộ Ðông Sơn thượng,
Thừa hứng lâm lưu nguyệt mãn thuyền.
5 -
Tháp sơn hoài cổ
Cổ tháp di khư loạn thảo đôi,
Dục Vương khứ hậu ủy hôi đồi,
Thiên quân bảo khí minh lưu thủy,
Cửu cấp phù đồ hóa kiếp hôi,
Tiều tử ỷ kha miên thạch đắng,
Mục nhi khu độc há sơn ôi,
Ðăng cao dục hội sơn tăng giảng,
Hà xứ chung thanh khụ nhất hồi.
6 -
Thạch phố quan ngư
Phong điềm ba tỉnh độ giang mi,
Vọng vọng ngu châu nhất tự nhi,
Thủ thám giao cung giang tác lộ,
Võng thu thần thị tịch vi kỳ,
Huề la bản phụ phan thuyền vĩ,
Khấu tiệp đà sư hệ tửu chi,
Hoặc thủ chư "ly" kiêm thủ
"hoán",
Thánh nhân khai vật dữ nhân nghi.
7 - Cốc
Tự tham thiền
Thần ngoan quỷ tạc bất tri niên,
Thế thế an bài nhược tự nhiên,
Ốc bất ngõa từ giai bất thế,
Nham như tường bích thạch như diên,
Dạ minh hiến quả liên đài hạ,
Phong tử hàm hoa bảo án tiền,
Ðào hưởng tiều ca hòa điểu ngữ,
Thanh thanh hoán tỉnh lão tăng miên.
8 - Bộ
khánh minh tự cảm hứng
Phạn Vương quy khứ kỷ thời lai,
Không ủy Kỳ Viên ế thảo lai,
Khánh hữu cơ duyên quy biệt viện,
Chung vô cư nghiệp trệ không giai,
Ðồi lương bại ngõa sào ma tước,
Phá kệ tàn bi yểm lục đài,
An đắc Như Lai Thiên Thủ Phật,
Hư không nhất dạ khởi lâu đài.
Chú thích:
Ðồ Sơn: tên núi và bãi biển nơi
nghỉ mát nổi tiếng miền Bắc, nay thuộc Hải Phòng.
Giang phi: tên nữ thần sông.
Ngọc dịch: nước giếng Cổ Loa để
rửa ngọc trai.
Long diên: rãi rồng, nước miếng
cá voi.
Long diên hương: một hải sản
quý, thơm ngon.
Vương Minh: Vương Dương Minh,
Tể tướng đời nhà Tống, đề xướng thuyết tri hành hợp nhất.
Linh Sơn: Núi Linh Thứu nơi
Phật ở và thuyết pháp.
Sắc Không: thuyết vô ngã, sắc
là hình tướng sự vật, là có do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, là không vì tự nó
không thật có.
Phóng đăng: nơi thả đèn hoa sen
nhân lễ Vu Lan.
Ðế Bà: tên cô gái địa phương bị
Chúa Trịnh Giang hiếp, có mang, dân làng bắt tội ném xuống biển, hiển thánh,
sau được dựng chùa thời gọi là Ðế Bà.
Dục Vương: Vua Asoka, sinh sau
Ðức Phật ba trăm năm, thống nhất Ấn Ðộ và dựng chùa kết tập kinh điển và truyền
bá Phật Giáo khắp nơi.
Phù đồ: Stuppa, Chùa.
Kỳ Viên: nơi Ðức Phật và Tăng
già an cư kiết hạ khi mùa mưa.
Qua tám bài Vịnh cảnh Ðồ Sơn,
ta thấy Hồ Xuân Hương rất thông suốt Phật pháp: biết núi Linh Thứu, biết vườn
Kỳ Viên, biết tích Vua A-Dục, biết việc Vương Minh đào giếng giúp dân, ban phước,
biết tích Phật Thiên Thủ Thiên Nhãn. Xuân Hương thiền định ở Chùa Cốc, thuộc
kinh điển: sắc tức thị không không tức thị sắc, Cao tăng là hiện thân Phật
Tổ... Xuân Hương còn thông Kinh Dịch quẻ ly quẻ hoán. Thơ Vịnh cảnh chùa Hồ
Xuân Hương tràn đầy thiền vị, của một Phật tử đầy đạo tâm... điều đó trái ngược
với sự dốt nát, xấc xược trong những bài thơ truyền khẩu gán cho Xuân Hương.
Có thể có người nói về tuổi gần
năm mươi Xuân Hương đạo hạnh, nhưng thời trẻ có thể tinh nghịch, bài thơ Vịnh
Chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương làm lúc trẻ đã bác bỏ sự kiện này. Trong Hương
Ðình Cổ Nguyệt thi tập, mới tìm thấy trong tủ sách gia đình ông Trần Văn Hào,
tại Quần Phương, huyện Hải Hậu, Nam Hà, hiện lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Hà
Nội có bài thơ Ðề Chùa Trấn Quốc bằng chữ Hán, tôi dịch như sau:
Ðề chùa
Trấn quốc
Ai người đến đó khách đài trang,
Nhè nhẹ thanh thanh cơn gió nam,
Trăng nước sóng lồng, sen nỏn cánh,
Khói hương tàn báu, hạc mây ngàn.
Rửa niềm trần tục hoa hàm tiếu,
Gợi tỉnh niềm mê, cỏ thắm xuân,
Ðến cảnh quay đầu, người muốn hỏi,
Ðông nam tay vẫy, nhạn tung đàn.
Nguyên tác phiên âm Hán-Việt
như sau:
Ðề trấn quốc tự
Trang lâm thùy thị cảnh trung nhân,
Tế tế thanh phong phiến phiến huân,
Thủy nguyệt ba lung liên quải choát,
Hương yên bảo thoại lộ liên vân.
Tẩy không trần lự hoa hàm thoại,
Hoán tỉnh mê đồ thảo diệc xuân,
Ðáo cảnh linh nhân hồi thủ vấn,
Ðông nam phất tụ nhạn thành quần.
Bài thơ cho ta thấy phong cách
trang nhã của Hồ Xuân Hương, đã thấm nhuần Phật pháp khi đến chùa, nhìn đóa hoa
hàm tiếu như rửa niềm trần tục, nhìn thấy cỏ mùa xuân như gợi tỉnh niềm mê.
Trong bài này Xuân Hương đến chùa với một khách đài trang tôi nghĩ rằng đó là
Nguyễn Du, về sau này trong bài chơi Tây Hồ nhớ bạn, Xuân Hương có nhắc đến: Trấn Quốc rêu phong vẫn ngấn thơ, lời
thơ đề vịnh chùa Trấn Quốc còn vang vọng như ngấn nước, và Nguyễn Du phục tài
Xuân Hương sánh nàng với Tiểu Thanh. Thuở ấy Xuân Hương ngây thơ thấy cảnh muốn
quay đầu hỏi, nhưng Nguyễn Du không đáp đưa tay vẫy đàn nhạn tung trời. Nếu giả
thuyết này đúng bài thơ này có lẽ được viết trong khoảng thời gian 1790-1793.
Trong thơ truyền khẩu có chép
bài thơ nôm Chùa Trấn Bắc gán cho Hồ Xuân Hương.
Chùa
Trấn Bắc
Qua chơi Trấn Quốc cảnh buồn rầu,
Chạnh niềm cố quốc nghĩ mà đau.
Một tòa sen lạt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong điểm áo chầu.
Sóng lớp phế hưng coi vẫn rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
Người xưa cảnh cũ đâu đâu tá?
Ngoài cửa hành cung, cỏ dãi dầu.
Chú thích: Nhiều bản chép câu
cuối:
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
Chùa Trấn Quốc, năm 1844 Vua
Thiệu Trị mới đổi ra Trấn Bắc. Do đó trong thời Xuân Hương chùa mang tên Trấn
Quốc. Theo tôi bài thơ này của bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Thị Hinh, cùng quê
làng Nghi Tàm, huyện Vĩnh Thuận với Xuân Hương, bà sinh sau Xuân Hương, chồng
là Lưu Nguyên Ôn người làng Nguyệt An huyện Thanh Trì, Hà Ðông, từng làm Tri
huyện Thanh Quan, chồng bà mất sớm, năm ông 43 tuổi, bà vẫn ở vậy nuôi con. Ðời
Vua Minh Mạng bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy các cung phi và công
chúa. Bà Huyện Thanh Quan cùng làng Nghi Tàm, sống gần thời Hồ Xuân Hương, thơ
lại chép lẫn trong văn bản Landes, chúng ta có thể suy diễn: Bà Huyện Thanh
Quan có thể là học trò Hồ Xuân Hương, tuy nhiên hiện nay tư liệu về Bà Huyện
Thanh Quan quá ít ỏi để kết luận việc này. Theo Tuyển Tập Văn Bia Hà Nội. Q I
nxb KHXH 1978 tr. 33-38. Nguyên tên Khai Quốc do Vua Lý Nam Ðế khai sáng khi
lập nước Vạn Xuân năm 544 nằm trên bờ sông Hồng sau vì bãi sông bị lở nên năm
1615 dời vào bãi Kim Ngư, Hồ Tây. Trên nền cũ cung Thúy Hoa đời Lý, điện Hàm
Nguyên đời Trần, đời Lê vua lập hành cung tại đó. Chùa được xếp hạng thứ tư
nước nam. Ðời Tây Sơn chùa hoang phế, đổ nát. Năm 1813 nhà sư Khoan Nhân đứng
ra quyên góp trùng tu chùa, năm 1815 mới xong, Tiến sĩ Phạm Quý Thích viết bài
văn bia trùng tu chùa.
Qua văn bản André Landes do Lê
Quý chép bằng chữ nôm năm 1892-1893, Xuân Hương thường đi chùa với bạn gái em
Tử Minh, và rất thân với Tử Minh, người bạn này thông suốt Phật pháp tu thiền,
thiền định mỗi ngày, trong thơ Vịnh Hạ Long, Xuân Hương cũng có câu "Cao
tăng đâu đó tụng thời kinh". Sau khi chồng mất Xuân Hương vào chùa tu. Mối
quan hệ Xuân Hương với Phật Giáo không đến nỗi xấu. Có thể thời Xuân Hương có
người trốn việc đi tu, nhưng Sư nếu tu hành không siêng năng, phạm giới làng sẽ
đuổi ra khỏi chùa, "phép Vua, chùa làng, phong cảnh Bụt" bao nhiêu
cặp mắt người đời nhìn sư, sư ăn chay trường đạm bạc, có được danh lợi gì
chăng? Chùa Tăng, chùa Ni xưa nay phân biệt rõ ràng, sư được hưởng năm ba trái
chuối thiện nam tín nữ dâng cúng Phật, thì có gì là xa xỉ. Nếu sư có bảy tám bà
vợ làm vãi núp sau lưng, thì làng xã có để cho sư yên chăng? Thiện nam tín nữ
có thể nhắm mắt và dâng phẩm oản cho người thiếu đạo đức chăng? Những phê phán,
chế giễu nhà sư trong các thơ truyền khẩu gọi là của Hồ Xuân Hương chỉ là những
phê phán lăng nhục vu vơ, khác hẳn với tư cách thanh nhã, có chứng cớ ta biết
về Hồ Xuân Hương.
Thơ Xuân Hương được chép trong
đầu thời Pháp thuộc, các ngôi chùa được xem như chiến lũy chống Pháp bị phá
sạch tại Sàigòn như chùa Cây Mai, Khải Tường, Kiến Phước... Tại Hà Nội và vài
chùa khác bị phá để xây nhà thờ, cuộc khởi nghĩa các nhà sư Vương Quốc Chính,
Võ Trứ, Phan Xích Long... hằng lớp nhà sư bị bắt, bị tù đày, bị giết, bị miệt
thị là giặc thầy chùa, giặc đầu trọc. Khẩu khí những bài thơ viết về nhà sư,
không phải là khẩu khí của người học rộng, thuần thục, trọng lễ nghĩa như Xuân
Hương. Học rộng ngày xưa được hiểu như người tinh thông cả tam giáo: Nho, Phật,
Lão, ta thử xem những người đương thời như Phạm Quý Thích, Nguyễn Du, Phạm Ðình
Hổ viết thế nào về Phật Giáo.
Phạm Quý Thích trong bia ghi
việc xây dựng lại Chùa Trấn Quốc (1813-1915) viết:
"... Trải qua một cuộc biến đổi đời Tây Sơn, ngôi chùa dần dần
hoang phế; đã không tu sửa được lại đổ nát thêm... Nhà sư trụ trì, tự là Khoan
Nhân, nối nghiệp sư tổ, tu tạo quả phúc, hợp sức hưng công...
Ôi! Chùa đổ rồi dựng lại, đó là điều Trương Tăng Phủ (Trương Hán Siêu)
lấy làm bùi ngùi. Tôi còn nói gì nữa? Nhưng Hồ Tây là nơi thắng cảnh, Trấn Quốc
lại là cảnh đẹp của Hồ Tây. Những nơi danh thắng của cố đô vì loạn lạc bị đổ
nát cũng nhiều. Ðổ nát mà không xây dựng lại, thì chẳng mai một đi ư? Ý nghĩ
của mọi người trong bản phường là như thế.
Huống chi lên cao ngắm cảnh, mây nước mênh mang, nước hồ ánh trong suốt
khiến lòng người không hư, tiếng chuông chùa gọi tỉnh mộng trần tục, khiến chỗ
ý thức phân biệt giữa "ngoại vật" và "ta" tiên tan hết. Tấm
bia rêu phong còn đó, lối xưa hoa cỏ nay đâu? Ngày tháng là bao, bỗng chốc
thành dấu cũ, khiến cho con người chạnh lòng cảm khái đối với cảnh vật xưa nay.
Ðây chẳng phải là nơi tao nhân mặc khách thường lui tới viếng thăm, và
bậc cao nhân hiền triết đã có cái nhìn thông suốt đấy sao? Âu cũng là điều đáng
ghi vậy.
Minh rằng:
Cầu ngang Linh Ẩn,
Chuông dội Hàn Sơn,
Trước mặt mỏ phượng,
Sau lưng uốn rồng,
Sóng gợn trong vắt,
Mặt nước Tây Hồ,
Ngàn đóa hoa sen
Ðua nhau vui nở,
Tịch nào không cảm?
Hư nào không thiêng?
Trăng lồng đáy nước,
Soi tỏ chân như,
Bia năm Dương Hòa,
Ðến nay thành cổ,
Ta khắc bài minh,
Cùng truyền muôn thuở".
Chú thích:
Mõ phượng: Mũi đất bên Hồ Tây
khu vực Trường Bưởi, trong bài Chơi Hồ Tây Nhớ Bạn, Xuân Hương gọi là non
phượng đất.
Những bài viết ký về chùa của
Phạm Ðình Hổ trong Tang Thương ngẫu lục như bài ký chơi núi Phật Tích cùng bốn
người bạn:
"Giờ Dậu lên chùa Thiên Phúc, nhà sư trụ trì là Tịch Khiết mời ngồi
lại nói chuyện. Tịch Khiết người làng Thiên Phúc, ăn nói nhã nhặn, bặt thiệp...
Giờ Tỵ qua cầu Nguyệt Tiên, lần bậc lên núi... Trụ trì chùa này nguyên là một
viên nội thần tiền triều, thấy khách đến, mời thiết ân cần bằng những món ăn
trong núi...". Trong bài tả chùa Kim Liên làng Nghi Tàm, cạnh nhà
Xuân Hương, Phạm Ðình Hổ và bạn bè đến chơi cũng được chú tiểu lễ phép mời vào
chùa dùng trà cùng sư trụ trì. Phạm Ðình Hổ đã tả những nhà sư đương thời với
Xuân Hương như thế: hiếu khách, bặt thiệp, ân cần, nhã nhặn...
Những bài thơ nhạo báng Tăng
hoàn toàn không đúng với thái độ một người sống trong thời đại Xuân Hương:
"Ðầu sư há phải gì bà
cốt" bài Sư bị ong châm, "trái gió cho nên phải lộn lèo" bài Sư
bị làng đuổi, "đầu thì trọc lóc áo không tà" bài Nhà Sư, "hỏi
thăm sư cũ đáo nơi neo?" bài Chùa Quán Sứ. Tôi cho rằng các bài thơ trên
chỉ là khẩu khí của người viết trong thời Pháp thuộc, người viết vốn xuất thân
từ trẻ mồ côi được các cố đạo nuôi, được học trường Dòng, bị phạm kỷ luật, bị
đuổi ra vì tư cách kém cỏi, nhưng biết chút đỉnh chữ Quốc Ngữ, chữ Nôm, chữ
Hán, xin làm thông ngôn, ký lục, hạng người này được hưởng "tối rượu
sâm-banh sáng sữa bò", làm tất cả các công việc gì các quan cai trị thực
dân muốn, từ chép thơ văn cổ như Lê Quý, Nguyễn Văn Ðại, viết báo chữ Quốc Ngữ,
đến Tri huyện, Tri phủ, theo chân Nguyễn Thân, Trần Bá Lộc đánh dẹp
"giặc" Phan Ðình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Ðinh Công Tráng... và làm đến
cả các chức quan đại thần triều đình. Những người sửa chữa thơ Hồ Xuân Hương,
đã ngụy tạo một số bài thơ theo thị hiếu dâm tục, hoặc để bán sách cho chạy,
nền văn hóa tam giáo Nho, Phật, Lão, họ chỉ hiểu lơ mơ, nên khi đả kích Phật
Giáo, họ tưởng để lấy lòng chủ nhân là các quan thuộc địa Pháp, họ cũng chỉ đả
kích bằng những cảm quan bề ngoài, đầu trọc lóc, tụng kinh giọng hi ha, vãi mọp
sau lưng, bảy tám bà... Trong Phật Giáo những người cảm thấy không tu hành được
xin xả giới, trở về đời sống trần tục thành cư sĩ tu tại gia, cưới vợ là điều
bình thường, không có gì nhục nhã như các thầy Dòng bị đuổi.
Ta thử xem Nguyễn Du, người
đương thời với Hồ Xuân Hương trong bài: Phân Kinh thạch đài của Thái tử Chiêu
Minh đời Lương, đã phê phán:
"Kinh thiêu ra tro, đài đổ nát
Nghìn vạn lời lưu lại ích chi,
Chỉ để bọn ngu tăng đời sau đọc điếc tai
người ta.
Ta nghe nói Thế Tôn ở Linh Sơn,
Thuyết pháp cứu người nhiều như cát sông
Hằng.
Người hiểu được chữ tâm tức là độ rồi.
Linh Sơn chỉ ở trong lòng người,
Minh kính cũng không là đài,
Bồ đề vốn không phải là cây.
Ta đọc kinh Kim Cương hằng nghìn lượt,
Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó phần
nhiều không rõ ràng;
Khi đến dưới đài Phân kinh này,
Mới biết kinh "không chữ" mới
thật là chân kinh".
Ta thấy trong phê phán của
Nguyễn Du cái học rộng uyên bác của ông, biết sự tích Ðức Phật, biết thơ Lục Tổ
Huệ Năng, kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cương... phê phán ngu tăng đọc mà không hiểu
chỉ làm điếc tai người ta. Trong thơ Nguyễn Du ta thấy ông rất trân trọng với
người bạn tâm đắc là nhà sư Huyền Hư Tử. Thơ chữ Hán tôi dịch như sau:
Hạc nội mây ngàn bao thuở gặp,
Trăng thanh gió mát nhắn gì hơn,
Thầy ở xa về đường nhớ lấy,
Nhà tôi đầu xóm núi Hồng Sơn.
(bài Ký Huyền Hư Tử)
hay
Trường An biền biệt mãi,
Nhớ quê chân trời xa,
Chân trời không thấy được,
Còn trông bụi cát pha,
Gió Tây thổi lá rụng,
Sương trắng nhạt hoàng hoa,
Tấm thân thầy cẩn trọng,
Vào thu sương móc sa.
(bài Ký Giang Bắc Huyền Hư Tử)
Một người học rộng như Hồ Xuân
Hương nếu có phê phán nhà sư cũng phê phán thông minh, phân biệt ngu tăng và
cao tăng. Một người viết câu "Cao tăng đâu đó tụng thời kinh", thường
đi lễ chùa và đã đi tu khó có thể nào viết những câu thơ nói lái hạ cấp, chữ
vần gượng ép: hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Những bài thơ nói về sư trong
thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương gần với thời đại Tú Xương (1870-1907) hơn do đó
ta bắt gặp những câu thơ truyền khẩu gọi là của Hồ Xuân Hương gần giống như thơ
Tú Xương, bài thơ cũng chỉ là truyền khẩu chứ không văn bản đích xác:
Một thằng trọc tếch ngồi khua mỏ
Hai ả tròn xoe đứng múa bông.
Hai câu thơ Tú Xương bài Ông Sư
và mấy ả lên đồng và bài Hang Thánh hóa thơ truyền khẩu Hồ Xuân Hương phảng
phất giống nhau...
Một sư đầu trọc ngồi khua mỏ,
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am.
Ở thời đại Tú Xương, đạo Phật
đã suy, chùa lẫn lộn với việc lên đồng. Ðĩ già đi tu. Thầy cúng thầy pháp cạo
đầu xưng là sư. Gái điếm như Tư Hồng trở thành bà lớn được phẩm hàm triều đình,
những tên vô lại gốc gác mồ côi, du đãng được nhà thờ nuôi dưỡng phá giới bị
đuổi, nhờ biết lỏm bỏm chữ quốc ngữ, chữ Pháp trở thành quan huyện, Tổng đốc,
lợi dụng thời cơ mất nước, đồng bào không biết chữ mới, chiếm cứ đất đai, trở
nên những triệu phú, tỷ phú...
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Chi bằng đi học làm thầy Phán,
Tối rượu sâm-banh sáng sữa bò.
(Thơ Tú Xương)
Mối mâu thuẫn giữa Tăng sĩ và
Nho sĩ có vào cuối đời Trần, khi Nho sĩ thắng thế vào cuối đời Hồ, lại không có
khả năng giữ được nước, chỉ bảy năm sau nhà Minh sang xâm chiếm, Nho sĩ thất
bại hoàn toàn trong việc vận động dân tộc. Sang đời Lê, tuy Nho giáo là quốc
giáo, Tăng sĩ trở về sống với dân gian, nhưng mỗi Nho sĩ đều ảnh hưởng sâu đậm
Phật Giáo như Nguyễn Trãi vừa là một Nho sĩ vừa có tâm hồn một Thiền sư, Vua Lê
Thánh Tôn, tuổi nhỏ, bị gian thần hãm hại phải ẩn lánh trong chùa. Mối quan hệ
Tăng sĩ và Nho sĩ trong thời Trịnh, Chúa Nguyễn cũng rất tốt đẹp, nhiều bà phi,
công chúa và nhiều vị chúa cuối đời đi tu. Khi Pháp chiếm nước ta, trong các
cuộc khởi nghĩa Văn Thân đều có bóng dáng các Tăng sĩ, quan hệ Tăng và Nho rất
tốt đẹp sống hòa hợp trong xã hội Việt Nam. Chỉ có thời đại hỗn loạn đầu thời Pháp
thuộc, đạo đức suy vi, và chỉ có bọn giả danh trí thức mới này, cần thiết đánh
đổ các hệ tư tưởng cổ truyền dân tộc mới gọi Hang Thánh Hóa là cái dương vật
(Xem Ts Nguyễn Xuân Thọ. Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở
Việt Nam. 1858-1897. TGXB 1995) Loại bỏ những bài thơ này ra khỏi thơ Hồ Xuân
Hương, những bài thơ không chút giá trị văn học, nhảm nhí, thô tục, ta đưa thơ
truyền khẩu còn lại trở về gần với Lưu Hương Ký với con người thật tài sắc vẹn
toàn của Hồ Xuân Hương.
Tóm lại tôi bác bỏ các bài thơ,
phỉ báng các Tăng sĩ: Chùa Quán Sứ, Hang Thánh Hóa, Sư bị ong châm, Sư bị làng
đuổi..., gán cho Hồ Xuân Hương, vì lý do:
- Hồ Xuân Hương là người
"học rộng và thuần thục". Học rộng ngày xưa được hiểu là người tinh
thông Tam Giáo: Phật - Nho - Lão. Các bài thơ phỉ báng Tăng gán cho Hồ Xuân
Hương, hoàn toàn dốt đặc cán mai về Phật Giáo, chỉ giễu cợt hạ cấp bằng nói
lái, bằng bề ngoài, đầu trọc lóc, áo không tà, tràng hạt vãi lần đếm lại đeo,
tả Hang Thánh Hóa, nơi Từ Ðạo Hạnh mất, nơi linh thiêng của Phật Giáo Việt Nam
được đồng bào tôn kính thành cái dương vật... hay sửa đổi các câu thơ nghiêm
chỉnh của Bà Huyện Thanh Quan gán cho Hồ Xuân Hương thành câu chế ngạo tăng:
khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
- So sánh với ngôn ngữ, thái độ
người đương thời đối với Phật Giáo như Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Phạm Ðình
Hổ... ngôn ngữ đối với Tăng rất kính trọng. Ngôn ngữ các bài thơ phỉ báng Tăng
gán cho Hồ Xuân Hương gần gũi với thời đại thơ Tú Xương (1870-1907) tôi kết
luận các bài thơ này mới ngụy tạo trong thời Pháp thuộc.
- Trái lại với ngôn ngữ phỉ
báng Tăng Ni các bài thơ ngụy tạo, Hồ Xuân Hương là một thiếu nữ thường đi chùa
với mẹ, với bạn gái em và vợ Cả Tân, với học trò, với các bạn Nho sinh; Xuân
Hương đi chùa Kim Liên, chùa Văn Giáp, chùa Trấn Quốc với Nguyễn Du, Chùa Một
Cột với Mai Sơn Phủ, Chùa Hương với các bạn Nho sinh, Chùa Thầy lúc đi buôn...
Quan hệ Xuân Hương với sư sãi rất tốt đẹp, Xuân Hương kính trọng bậc Cao tăng
trong thơ Vịnh Cảnh Hạ Long, Vịnh Cảnh Ðồ Sơn. Xuân Hương xem như ruột thịt với
Tử Minh, một thầy đồ dạy học hàng ngày thiền định tu tập, khi chồng mất Xuân
Hương vào chùa nương náu... Với nhân cách, một người học rộng, nết na, thuần
thục, tài sắc Xuân Hương không thể nào là tác giả các bài thơ ghét sư.
Ngược lại hành động bôi nhọ các
nhà sư, Xuân Hương mắng bọn học trò dốt, làm thơ dở, lên chùa viết thơ vào vách
chùa, thơ dở bẩn cả vách chùa.
Mắng bọn đồ dốt
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,
Cũng đòi học nói, nói không nên,
Ai về nhắn bảo phường lòi tói,
Muốn sống đem vôi quét trả đền.
Phạm Trọng Chánh
Tài liệu tham khảo
- Hoàng
Xuân Hãn: Hồ Xuân Hương với Vịnh Hạ Long. Tình sử Hồ Xuân Hương. Tạp chí Khoa
học Xã hội số 10-11, 12/1993 - Paris.
- Bùi Hạnh Cẩn: Hồ Xuân Hương -
Thơ chữ Hán, chữ Nôm, Giai thoại - Văn Học 1995.
- Thơ Hồ Xuân Hương Nxb Ðồng
Nai 1986 -Tuyển tập Văn Bia Hà Nội - Nxb KHXH 1978.
- Phạm Ðình Hổ: Tang Thương
ngẫu lục - TTNL. BGD Sàisòn 1970.
- Nguyễn Du: Thơ chữ Hán - Nxh
Văn Học 1965.
- Nguyễn Xuân Thọ: Bước mở đầu
của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam 1858-1897 - TGXB - Hoa Kỳ 1995.
- Nguyễn Quyết Thắng: Tự Ðiển
Nhân Vật Lịch Sử VN - KHXH 1992.