Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm
nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả
chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người
cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh
lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả
họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp
phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằng
lòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó
khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.
Trong lữ trình của sinh mệnh, có
rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của chúng ta, như sự kỳ
vọng của phụ mẫu sư trưởng, hay thái độ cừu địch thân hữu. Việc vận dụng
tiền tài vật chất, cố nhiên có thể chi phối sự phát triển tiền đồ- con
đường phía trước của chúng ta. Một câu nói. Một ý nghĩ#. Tất cả đều có
thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chúng ta. Phật giáo cho rằng sự
li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không
tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng:
“Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem những gì mình đang chịu đời này;
muốn biết quả kiếp sau, hãy xem những việc làm của mình ở đời này”. Do
vậy, có thể suy luận: Tất cả cảnh giới thuận nghịch mà đời này gặp phải,
là do những tạo tác của hành vi quá khứ mà hình thành, đây chính là quả
báo của đời này; nhưng mà, nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là
quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy
theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản
chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con
người vẫn là chính mình.
Những nhân tố ảnh hưởng đến vận mệnh được quy kết như sau:
Thứ nhất, tập quán: Phật giáo cho rằng
phiền não đã là thứ khó đoạn tuyệt, nhưng lại có một thứ càng khó khử
trừ hơn đó là tập khí (1). Tập quán (thói quen) vốn là mô thức cố định
trong đời sống của chúng ta, có tốt có xấu, nhưng mà sau khi trải qua
một thời gian dài, thói quen trở thành tự nhiên, thì sẽ biến thành tập
khí thâm căn cố đế, đời đời kiếp kiếp khó mà tiêu trừ. Vì vậy, đối với
sự dưỡng thành thói quen, cần phải cẩn thận. Thói quen xấu gồm như hút
thuốc, hít độc (tiêm chích ma túy), nát rượu, v.v… những thói quen không
lành mạnh này có khả năng tàn phá, làm tổn hại đến thân thể, sức khỏe;
hay như nói dối, lạm tình, kiên tham (bủn xỉn, tham lam), v.v…, cũng có
khả năng làm bại hoại đến đạo đức của chính mình. Thói quen tốt gồm như
chế độ làm việc và nghỉ ngơi bình thường, ăn uống, vận động, tinh thần
lạc quan, v.v…, có thể kéo dài tuổi thọ; hay như cần cù, gọn gàng sạch
sẽ, sốt sắng nhiệt tình, v.v…, có thể tự lợi lợi người. Phật giáo khởi
xướng tín đồ nuôi dưỡng thói quen đọc tụng kinh (2), từ đó có thể nương
tựa Phật pháp dẫn dắt qua khỏi bến mê; cũng như dưỡng thành thói quen
niệm Phật (3), thì có thể nương Phật hiệu khơi gợi Phật tính trong tâm
mà vãng sinh Tịnh độ, siêu việt sinh tử. Tóm lại, một người mặc dù có
điều kiện ưu việt được trời ưu ái, mà thói quen không tốt, cũng khó có
vận mệnh đại phú đại quý. Thói quen tốt cũng là một trợ duyên, có thể
giúp chúng ta biến nguy thành an, thuận buồn xuôi gió.
Thứ
hai, mê tín: Nhiều người thích coi số đoán mệnh, mục đích không ngoài
hy vọng mọi việc của mình được như ý muốn, gặp hung hóa kiết, gặp dữ hóa
lành. Có người khăng khăng giữ quan niệm chọn bạn trăm năm phải phối
hợp Bát tự (4), có người thì chú trọng việc cất nhà sản xuất phải xem
phong thủy, lại có người thậm chí mọi việc cầu thần coi bói, không cần
phán đoán, nhận định theo lý tính. Hành vi mê tính, bắt nguồn từ sự
thiếu vắng niềm tin, có lúc ngược lại, do vậy mà đánh mất đi những cơ
hội tốt hoặc bóp méo sự thật, vô tình chôn vùi hạnh phúc của một đời.
Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt đẹp, giờ giờ đều là
những giờ tốt đẹp, chỉ cần phù hợp chính lý nhân quả, thì không có gì
đáng cữ kiêng.
Thứ ba, tình ái: Gọi là “Ái bất trọng
bất sinh Sa bà” (tình yêu vắng mặt chấp thủ, tất sẽ không sinh ở chốn
Sa-bà), con người tất nhiên thì là có tình cảm, nhưng có một số người cứ
vì quá chấp vào tình yêu, để rồi đánh mất lý trí, thậm chí có người vì
tình ái mà tự tạo ra những hố sâu bi tình không thể nào bù đắp lại. Do
vì, tình yêu không được xử lý một cách thỏa đáng, thường hay nảy sinh
những phiền muộn khổ đau, cho nên Phật giáo khuyên dạy con người nên lấy
trí hóa giải tình yêu, lấy từ làm nên tình yêu, có thể thăng hoa tình
yêu thành từ bi, như thế mới có thể không tự làm khổ mình, cũng không
làm phiền lòng người khác.
Thứ tư, quyền lực: Sự chi phối của quyền
lực là do quá cưng chiều ngã chấp (5) và ngã mạn (6), khiến cho con
người dưỡng thành ý thức giai cấp tôn ti, quý hèn. Có người tự ti quá
độ, cam tâm chịu khuất phục quyền lực, không cầu tự chủ, một đời thấp
hèn, ti tiện; có người thì danh lợi lòng dạ hiểm độc, cầu mong quyền
lực, không từ một thủ đoạn nào, đánh mất lý tính. Mà Phật giáo thì cho
rằng chúng sinh bình đẳng, mọi người đều có Phật tính, bần phú quý tiện
thật sự là ở chỗ hữu- vô của đạo đức; chúng ta nên có sự nhận biết và
đảm đương trách nhiệm “Ta là Phật” (7), tin tưởng sự kiến lập nắm bắt
vận mệnh ngay chính bản thân mình.
Thứ năm, nghiệp lực: Phật giáo cho rằng
nghiệp lực (8) là sức mạnh lớn nhất có khả năng khống chế vận mệnh.
Nghiệp lực là các hành động thân, khẩu và ý của mỗi một người, nó có sức
ảnh hưởng đến đời sống vị lai. Nhiều người than thở thời vận của mình
không tốt, hoặc oán trách việc người không có lợi cho bản thân, không
nghĩ rằng phàm bất cứ việc gì cũng đều do nghiệp lực tạo thành, thành
công cố nhiên là ở mình, nhưng việc phối hợp hoàn cảnh bên ngoài, càng
không thể xem nhẹ; những thất bại, sai trái tuy đã qua, nhưng cũng nên
nhìn lại để phản quan tự tỉnh: Phước ít đức bạc, sao có thể đạt được
việc tốt được? Phật giáo chủ trương “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác
báo”, lúc bình thường nếu có thể quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp
chướng, thì chắc chắn có thể hóa giải ác duyên túc thế, khai sáng tiền
đồ tốt đẹp trong tương lai.
Tập
quán, mê tín, tình ái, quyền lực và nghiệp lực, làm việc thiện làm việc
ác đều quyết định ở ý niệm của chúng ta, sửa đổi vận mệnh cũng cần bắt
đầu tịnh hóa từ tâm niệm của chúng ta. Nay dùng các phương pháp cụ thể
thay đổi vận mệnh được quy nạp như sau:
Thứ nhất, thay đổi quan niệm: Quan niệm
ảnh hưởng đến phán đoán giá trị của một con người, quyết định thú hướng
thiện ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự dưỡng thành chính tri chính
kiến. Gọi là “Chính tri chính kiến” chính là những kiến giải và quan
niệm chính xác. Phật giáo cho rằng chính kiến cơ bản của đời người (nhân
sinh) có bốn: Chính kiến có nhân có quả, chính kiến có nghiệp có báo,
chính kiến có thánh có phàm, chính kiến có thiện có ác. Đã có nhân sinh
quan chính xác, có niềm tin sâu sắc vào nhân quả, rõ biết duyên khởi,
thì tự nhiên sẽ không khởi ác tạo nghiệp, oán trời trách người.
Thứ hai, thay đổi hành vi: Tục ngữ nói:
“Muốn thu hoạch như thế nào, thì trước gieo trồng xuống những hạt giống
như thế đó”. Nghiệp nhân mà từ hành vi của mỗi một người tạo tác, một
khi nhân duyên tế hội gặp gỡ thì tự nhiên sẽ sản sinh quả báo, cho nên
chúng ta hy vọng tiền đồ tương lai tốt đẹp, cuộc sống phú lạc (giàu sang
và vui vẻ), thì cần phải bắt đầu từ hành vi của chính mình, để mong
chuyển họa thành phước, bởi vì tất cả hạnh và bất hạnh, đều có thể thao
túng, khống chế trong tầm tay của mình.
Thứ ba, quảng kết thiện duyên: Vũ trụ
vạn pháp, từ nhân đến quả, trung gian còn phải cần có lực lượng hữu
duyên, thì quả mới có thể sinh thành. Một đời của con người, có người
thì thông minh trí tuệ, năng lực rất tốt, nhưng trái lại người đó không
nhất định sẽ được gặt hái nhiều thành quả mỹ mãn; có người tư chất bình
thường, không có gì nổi bật, nhưng trái lại phàm gặp việc gì cũng suông
sẽ thuận lợi, đâu đâu cũng được sự tương trợ của người hữu duyên. Vì
vậy, chúng ta cần chú trọng đến “Quảng kết thiện duyên”. Kết duyên là
một việc làm tốt đẹp nhất trên thế gian này, đặc biệt sinh mệnh không
chỉ một đời, người có khả năng lấy Phật pháp kết duyên, thì đời đời kiếp
kiếp đều có thể đi theo các bậc thiện trí thức học tập, tự nhiên vận
mệnh thông đạt, ứng nhân xử thế vô ngại.
Thứ tư, trì giới thủ pháp: Giới (9) là
căn bản của tất cả thiện pháp, giới có thể phòng phi chỉ ác, gọi là “Họa
phước vô môn, duy nhân tự chiêu”, hành thiện tất được thiện báo, hành
ác tất gặp ác quả, người trì giới thì tuân theo giới luật (thủ pháp),
trong hành vi sẽ không phạm vào nghiệp nhân bất hảo, tự nhiên sẽ không
gây nên quả báo xấu. Vì vậy, kinh điển tỉ dụ: “Giới như lương sư, giới
như quỹ đạo, giới như thành lũy, giới như túi nước, giới như ngọn đèn
sáng, giới như bảo kiếm, giới như chuỗi ngọc, giới như thuyền bè”. Trì
giới thủ pháp có thể ngăn chặn ác duyên, tự nhiên sẽ có tiền đồ sáng
lạn, nhân sinh mỹ mãn.
Phật giáo đối với vận mệnh của một đời
con người có cách nhìn tích cực lạc quan, chủ trương các pháp vô thường,
duyên khởi tính không (10), vận mệnh xấu có thể dựa vào thiện duyên bồi
dưỡng tiến hành thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng nề, cũng có thể
giảm nhẹ, gọi là trọng nghiệp khinh báo (11). Con người không nên buồn
rầu với số mệnh không tốt của mình, mà cần cố gắng vượt lên, thay đổi
vận rủi ấy; cho nên con người không thể phó thác cho trời đất hay mặc
cho số mệnh, ủ rũ chán chường, để năm tháng luống qua một cách vô ích,
cần có quyết đoán, dứt khoát thay đổi triệt để, tạo dựng nên vận mệnh
của chính mình. Vì vậy, cho dù sống trong giàu sang thuận đạt, hoặc là
nghèo nàn khổ ách, đều nên chính quán duyên khởi, hiểu rõ vận mệnh, thay
đổi vận mệnh, từ đó lập nên vận mệnh mới, tốt đẹp hơn.
Trích dịch từ sách “Phật giáo &
Thế tục”(佛教世俗) in trong bộ sách “Phật học giáo khoa thư” (佛學教科書)
của Đại sư Tinh Vân (星雲), do NXB. Từ Thư Thượng Hải xuất bản, năm 2008,
tr.7-10...
CHÚ THÍCH:
(1)
Tập khí chỉ tư tưởng hoặc hành vi thường sinh khởi của chúng ta, huân
tập lâu ngày thành chủng tử, tồn tại trong thức A-lại-da, tùy sinh tử
luân hồi mà trình hiện trong thể sinh mệnh mới như hình theo bóng.
(2) Kinh là chỉ cho giáo pháp mà
Phật-đà trình bày, kinh nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển, tức chỗ đó có
Phật”. Vì vậy bái kinh, tụng kinh, chép kinh, đọc kinh đều có công đức
mở mang trí tuệ. Phật giáo coi trọng văn- tư- tu, nghĩa lý kinh Phật
thâm áo, cần nghe nhiều huân tập, tư duy pháp nghĩa, đã có sở đắc, càng
nên y lý thực hành trong đời sống, mới có thể được nhiều lợi ích chân
chính.
(3) Thông thường mà nói, việc quyết
định thú hướng vãng sinh có ba loại: Một, tùy trọng nghiệp đã tạo mà thọ
báo; hai, tùy tập khí bình thường thọ báo; ba, tùy nhất niệm lúc lâm
chung thọ báo. Kinh A-di-đà nói: “Nếu có người nghe nói đến Phật
A-di-đà, chấp trì danh hiệu, ví như một ngày hoặc đến bảy ngày nhất tâm
bất loạn, thì người đó lúc sắp lâm chung, Phật A-di-đà cùng chư thánh
chúng hiện ngay trước mặt người ấy người lúc lâm chung tâm không điên
đảo, tức được vãng sinh quốc độ Cực lạc Phật A-di-đà”. Người niệm Phật
thuần thục, tùy thời có thể lấy Phật niệm thay cho tạp niệm, bất luận là
tùy tập hay tùy niệm, đều có thể quyết định vãng sinh Tịnh độ.
(4) Bát tự = Tám chữ (giờ ngày tháng năm
sinh viết theo Thiên can và Địa chi) là cách xem số mệnh của Trung
Quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh ra
đều bị Thiên can Địa chi chi phối; mỗi hạng có hai chữ thay thế, bốn
hạng thì có tám chữ, căn cứ tám chữ này, tức có thể suy đoán vận
mệnh/sinh mệnh của một con người. Tục xưa lúc đính hôn, trước phải trao
đổi Thiếp tám chữ, cũng gọi “Canh thiếp”, hoặc gọi đơn giản là “Bát tự”.
(5) Chính là chấp trước tự ngã tồn tại
chân thật, rồi sinh khởi tâm luyến ái, tham thủ. Thể nguyên của chúng
sinh là giả hợp của ngũ ấm. Nếu vọng chấp có sự tồn tại của cái tôi thực
thể chi phối ảnh hưởng, mà nảy sinh phân biệt vọng tưởng như “ngã”
(tôi) và “ngã sở” (những cái của tôi), tức gọi là ngã chấp. Thành duy
thức luận thuật ký ghi, phẩm loại phiền não chướng có rất nhiều, lấy ngã
chấp làm gốc, sinh khởi các phiền não; nếu không chấp vào cái tôi, thì
phiền não tự dưng biến mất.
(6) Chính là tâm kiêu mạn, tự cho mình tài giỏi hơn người khác, rồi sinh khởi tâm lý khinh thường người khác.
(7)
Lời này có nguồn gốc từ công án Thiền tông. Thiền sư Linh Huấn hỏi
Thiền sư Quy Tông: “Cái gì là Phật?” Quy Tông: “Nói với ông, ông cũng
không tin”. “Ông chính là Phật”. Ý là bất kỳ người nào cũng đều có Phật
tính, chỉ cần khẳng khái đảm nhận, thì đều có thể thành Phật làm Tổ. Xem
Tinh Vân Thiền ngữ tứ: Bạn chính là Phật.
(8) Các hoạt động thân tâm như hành vi,
ý chí, gọi là “Nghiệp”. Sức ảnh hưởng tiếp nối những việc làm sau đó
của chúng ta gọi là “Nghiệp lực”. Phật giáo lấy tư tưởng của nghiệp dùng
để biểu đạt thiện ác của hành vi và mối quan hệ qua lại của khổ lạc
nhân quả báo ứng, cho đến các nguyên lý luân hồi như kiếp trước, kiếp
này và kiếp sau. Thông thường mà nói, nghiệp được chia làm ba nghiệp là
thân, ngữ và ý, nếu tạo nghiệp thiện ác, thì sau đó chiêu cảm quả báo
(dị thục) khổ lạc tương ứng. Do có nghiệp nhân, nên chiêu cảm nghiệp
quả; nghiệp vô ký phi thiện phi ác thì không có năng lực chiêu quả.
Nghiệp có nhiều chủng loại, y một đời chúng sinh thọ báo có thể phân làm
Dẫn nghiệp (lại gọi là tổng báo, chi phối nghiệp lực của chúng ta sinh ở
nhân giới, súc sinh giới hoặc các giới khác) và Mãn nghiệp (còn gọi là
biệt báo, nghiệp lực viên mãn của các căn chúng sinh, hình lượng, sắc
lực, v.v…) Theo sự dị đồng thọ báo giữa chúng sinh với chúng sinh, có
thể chia ra cộng nghiệp (khiến chúng sinh cảm được nghiệp quả báo chung,
như sơn hà đại địa, bối cảnh gia đình,…tức sự tương đồng của hoàn cảnh
bên ngoài) và bất cộng nghiệp (nghiệp báo bất đồng của chúng sinh ở
trong hoàn cảnh giống nhau, như cùng sinh ra từ trong một gia đình,
nhưng họa phước không giống nhau). Tùy sự nhanh chậm của thời gian thọ
báo, nghiệp còn phân làm Thuận hiện nghiệp (tức hiện tại làm việc thì
ngay hiện tại phải nhận quả báo), Thuận sinh nghiệp (tức đời này làm
việc, đời sau nhận quả báo), và Thuận hậu nghiệp (đến sau đời thứ ba mới
bắt đầu thọ báo)…
(9) Giới pháp Phật giáo bao hàm tất cả
hành vi quy phạm thế gian, có các loại sau: Thông giới (các việc ác chớ
làm, các việc thiện cần thực hành) và Biệt giới (giới luật được phân
biệt chế định trong Tăng đoàn thất chúng, còn có thể chia làm tại gia
giới và xuất gia giới); Chỉ trì giới (ngăn cấm điều ác) và Tác trì giới
(hành thiện); Tính giới (các giới đối với những hành vi tội ác mà lập
nên, như không giết mổ, không trộm cắp…) và Già giới (dù hành vi phi
thiện phi ác, nhưng trái lại dễ dàng nảy sinh cơ hiềm/hiềm khích hoặc
gợi ra giới pháp hành vi tội ác); Thanh văn giới (lấy tự luật- tự ràng
buộc hạn chế làm giới pháp chính, như “Ngũ phần luật”) và Bồ-tát giới
(lấy lợi tha làm giới pháp chính, nội dung hàm nhiếp luật nghi giới,
nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới); Giới tại gia (như ngũ
giới, bát quan trai giới…) và xuất gia giới (như Tỳ-kheo giới, Sa-di
giới…).
(10) Phật giáo chủ trương các pháp do
nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt, vạn sự vạn vật đều
là duyên sinh mà tụ, duyên diệt thì tan, vì vậy không có tự tính, bản
chất là không, cho nên nói duyên khởi tính không.
(11) Phật giáo cho rằng tội lỗi hay
nghiệp chướng có sâu nặng, cũng có thể thông qua sám hối sửa đổi, nuôi
trồng phước đức để giảm nhẹ. Tỉ như một nắm muối, mặn chát không thể nào
nuốt được, nếu như dùng nước pha loãng đi, thì vị mặn chát ấy tự nhiên
đổi sẽ thành nhạt loãng.